Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    19/09/2011, 11:53:20 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Tại sao sự việc như vậy mà đến giờ này bạn vẫn chưa báo công an?
            Việc "hắn ta" cướp điện thoại, chứng minh thư.. của người yêu bạn là cấu thành tội phạm rồi (Tội cướp tài san theo Điều 133 BLHS hoặc Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 BLHS...) và hình phạt có thể lên tới 10 năm tù (khoản 1, Điều 133). Ngoài ra anh ta còn có thể phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác theo Điều 125 BLHS, Tội đe dọa giết người (Điều 103), Tội vu khống (Điều 122), Tội làm nhục người khác (Điều 121)... Cụ thể anh ta phạm vào tội danh nào thì Công an vào cuộc thì sẽ rõ.
            Nếu bạn sợ bị trả thù thì bạn sẽ còn bị bắt nạt và hậu quả có thể đi xa hơn nữa!
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    19/09/2011, 11:41:52 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Thông thường khách hàng gặp phải trường hợp như bạn thì tôi thường giúp họ lập một hợp đồng ủy quyền cho bên thứ ba do khách hàng đó chỉ định để thực hiện thủ tục nhận, quản lý ngôi nhà tái định cư đó đồng thời nhận Giấy chứng nhận và ký hợp đồng sang tên cho khách hàng (Không để chị bạn cầm bất cứ giấy tờ gì và không để tham gia vào việc nhận nhà, nhận giấy tờ và cả việc ký HĐ sang tên cho bạn). Cẩn thận hơn, bạn có thể ghi âm hoặc viết giấy cam đoan về nội dung vụ việc để có căn cứ đề phòng tranh chấp xảy ra.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    19/09/2011, 11:34:31 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Trong vụ án ly hôn của bạn, bạn yêu cầu tòa án chia tài sản chung theo quy định pháp luật. Đối với ngôi nhà trên bạn khai là tiền xây dựng hết A đồng do vay mượn của mẹ bạn và yêu cầu xử lý khoản nợ này khi ly hôn. Đây là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 25 LHN&GĐ (việc xây nhà là nhu cầu thiết yếu nên mình bạn vay thì chồng bạn cũng phải liên đới nghĩa vụ trả nợ nếu không Tòa án cũng có thể xác định giá trị căn nhà đó là của mẹ bạn và trả cho mẹ bạn và em bạn).

       Bạn cũng cần cung cấp thông tin địa chỉ của mẹ bạn và em bạn để Tòa án triệu tập và hỏi xem ý kiến của mẹ bạn và em bạn thế nào? Nếu mẹ bạn và em bạn có yêu cầu đòi lại số tiền đó thì phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án mới xem xét.

       Chứng cứ bạn phải đưa ra để thể hiện có việc giao nhận tiền từ mẹ bạn và em bạn cho bạn (giấy tờ, băng đĩa ghi âm, người làm chứng...), nguồn gốc số tiền đó. Theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về các bên đương sự. Do vậy bạn phải có chứng cứ chứng minh thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu của bạn.

    2. Khoản 2, Điều 29 Luật HN&GĐ quy định: Nếu hai bên không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con dưới 3 tuổi do mẹ trực tiếp nuôi.

      Theo điểm d, mục 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC ngày 23/12/2000 thì: Nếu hai bên không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con thì Tòa án giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, đảm bảo việc học hành và các điều kiện phát triển tốt về tinh thần...

      Như vậy, theo các quy định pháp luật trên thì đến thời điểm xét xử nếu đứa nhỏ của bạn chưa đủ 36 tháng tuổi thì Tòa sẽ giao cho mẹ cháu nuôi dưỡng. Còn đứa lớn giao cho ai thì Tòa án sẽ xem xét. Việc bạn có thu nhập cao và ổn định cũng là một căn cứ để Tòa án cân nhắc. Tuy nhiên điều đó không quyết định được việc giao con cho bạn nuôi bởi còn các điều kiện khác để trẻ phát triển về tinh thần và các mặt khác (khả năng chăm sóc cho sinh hoạt hàng ngày, môi trường sống, kiến thức nuôi dạy con, văn hóa của bạn....).

    Nói chung pháp luật không quy định cụ thể nên QUYỀN quyết định cuối cùng vẫn do Tòa án quyết định căn cứ vào các chứng cứ do hai bên xuất trình và những yếu tố khác! Bạn cũng có thể mời Luật sư trực tiếp tham gia vụ việc để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    19/09/2011, 11:03:37 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:
    Theo quy định tại Điều 19, Nghị định 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai thì thủ tục tách thửa hoặc hợp thửa được quy định như sau:

    1. Hồ sơ tách thửa hoặc hợp thửa gồm có:

    a) Đơn xin tách thửa hoặc hợp thửa của người sử dụng đất đối với trường hợp tách thửa, hợp thửa theo yêu cầu của người sử dụng đất và trường hợp tách thửa, hợp thửa do nhận quyền sử dụng đất quy định tại điểm k và điểm l khoản 1 Điều 99 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP;

    b) Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai; trường hợp tách thửa, hợp thửa do nhận quyền sử dụng đất quy định tại điểm k và điểm l khoản 1 Điều 99 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì phải có thêm văn bản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.

    2. Việc tách thửa, hợp thửa theo nhu cầu của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

    a) Người sử dụng đất có nhu cầu xin tách thửa hoặc hợp thửa lập một (01) bộ hồ sơ nộp tại Sở Tài nguyên và Môi trường nếu là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; nộp tại Phòng Tài nguyên và Môi trường nếu là hộ gia đình, cá nhân; 

    b) Ngay trong ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo, Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường (gọi chung là cơ quan Tài nguyên và Môi trường) có trách nhiệm gửi hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để chuẩn bị hồ sơ địa chính;

    c) Đối với trường hợp hợp thửa không phải trích đo địa chính thì ngay trong ngày nhận được hồ sơ hoặc chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến cơ quan Tài nguyên và Môi trường cùng cấp.

    Đối với trường hợp tách thửa hoặc trường hợp hợp thửa mà phải trích đo địa chính thì trong thời hạn không quá bảy (07) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích đo địa chính thửa đất mới tách hoặc mới hợp thửa, làm trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến cơ quan Tài nguyên và Môi trường cùng cấp;

    d) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ký Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới; Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm ký Giấy chứng nhận cho thửa đất mới trong trường hợp được ủy quyền hoặc trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận cho thửa đất mới trong trường hợp không được ủy quyền;

    đ) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được tờ trình, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xem xét, ký và gửi Giấy chứng nhận cho cơ quan Tài nguyên và Môi trường trực thuộc;

    e) Ngay trong ngày nhận được Giấy chứng nhận đã ký hoặc chậm nhất là ngày làm việc tiếp theo, cơ quan Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trao bản chính Giấy chứng nhận đối với thửa đất mới cho người sử dụng đất; gửi bản lưu Giấy chứng nhận đã ký, bản chính Giấy chứng nhận đã thu hồi hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1,  2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai đã thu hồi cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc; gửi thông báo biến động về sử dụng đất cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để chỉnh lý hồ sơ địa chính gốc.

    Trên đây là quy định chung, áp dụng trong cả nước. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định pháp luật trên thì mỗi địa phương (tỉnh) lại có những văn bản quy định và hướng dẫn cụ thể. Để biết rõ hơn, bạn có thể đến Văn phòng đăng ký Đất và Nhà thuộc UBND cấp huyện để kiểm tra lại thủ tục và những giấy tờ cụ thể (bởi thực tiễn thủ tục mỗi nơi lại có những khác nhau nhất định).  Bạn cũng lưu ý về các giấy tờ để thưc hiện công việc CMND phải còn hạn sử dụng (15 năm),  Hộ khẩu phải khớp với thông tin CMND, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của bố mẹ bạn (nếu bố bạn đã chết thì phải có giấy chứng tử và phải tiến hành thủ tục khai nhận di  sản thừa kế trước khi tách thửa) và các giấy tờ khác liên quan... Bạn cũng có thể yêu cầu Luật sư cung cấp dịch vụ trọn gói về thủ tục trên.

    Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    19/09/2011, 10:40:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Nếu bạn cần Luật sư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chú bạn thì có thể liên hệ với tôi theo số điện thoại 0977 999 896. Văn phòng sẽ cử Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chú bạn!
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    19/09/2011, 10:36:09 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:
    1. Điều 401 BLDS quy định hợp đồng dân sự có thể được giao kết thông qua các hình thức sau đây: Văn bản, lời nói, hành vi. Theo đó, Hợp đồng vay tiền không bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản nên việc bạn giao kết hợp đồng vay tiền bằng lời nói hoặc hành vi (chỉ cần đưa tiền, không cần nói gì) thì cũng là hợp đồng hợp pháp theo quy định pháp luật.
    2. Hợp đồng giao kết bằng lời nói hoặc hành vi sẽ gây khó khăn cho bên cho vay trong việc chứng minh có khoản cho vay đó khi có tranh chấp xảy ra (nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong vụ án dân sự thuộc về các bên đương sự). Tuy nhiên trong trường hợp của bạn có giấy hẹn thanh toán thì cũng là chứng cứ xác đáng chứng minh có việc vay nợ. Giấy hẹn đó có giá trị pháp lý để bạn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    16/09/2011, 03:28:15 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:

    1.                        Bạn nên trình báo sự việc trên với công an để giải quyết theo thẩm quyền.

    -    Nếu bạn (hoặc cơ quan tố tụng) chứng minh được là người đó có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn thì người đó phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS và tòa án vẫn buộc họ phải hoàn trả số tiền trên cho bạn.

    -    Nếu người đó vay tài sản của bạn rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì người đó phạm Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

         Sự việc cụ thể, có cấu thành tội phạm hay không để công an vào cuộc thì mới biết được. Bạn nên yêu cầu công an giải quyết trước khi sự việc trở lên phức tạp!

    2.                        Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì bạn có thể thuê những người có chuyên môn về thu hồi nợ để họ thu hồi khoản nợ đó cho bạn hoặc khởi kiện vụ án dân sự để Tòa án giải quyết buộc bên vay phải trả tiền cho bạn.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    16/09/2011, 02:38:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:

    Điều 122 BLHS quy định về Tội vu khống như sau: “Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”.

              Như vậy, bạn chỉ phạm tội theo Điều 122 BLHS nếu cơ quan tố tụng chứng minh được là bạn biết rõ những thông tin mà bạn đã đưa ra là bịa đặt và mục đích của sự bịa đặt đó là nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Ngược lại nếu họ không chứng minh được là bạn có biết rõ hay không biết rõ về việc hiếp dâm và mục đích loan tin của bạn có nhằm xúc phạm hoặc gây thiệt hại cho gia đình nạn nhân hay không thì bạn không phạm tội.

              Dù bạn có phạm tội hay không thì theo ý kiến cá nhân tôi, bạn cũng không nên làm như vậy. Nếu bạn không phạm tội thì cũng có thể bị xử phạt hành chính về hành vi trên.

              Vì vậy, bạn nên thận trọng khi trình bày với cơ quan tố tụng về nhận thức và mục đích của mình trong sự việc trên. Nếu bị khởi tố vụ án thì tốt nhất bạn nên mời luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình.

    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    16/09/2011, 02:17:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Chủ xe giao xe cho người không có bằng lái sử dụng là sai. Nếu bạn vi phạm luật giao thông gây hậu quả nghiêm trọng thì người chủ xe đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
              2. Việc bạn không có bằng lái mà điều khiển xe là bạn cũng có lỗi, vi phạm luật giao thông. Bạn đã gây thiệt hại cho chủ xe, nếu thiệt hại đó trị giá từ 50trđ trở lên là bạn phạm tội thuộc khoản 1, Điều 202 Bộ luật hình sự.

                Tuy nhiên, vụ việc này thiệt hại có thể chưa tới 50trđ nên không cấu thành tội phạm. Còn việc bồi thường thì hai bên tự thỏa thuận với nhau. Nếu theo lý thì bạn có thể phải bồi thường cho chủ xe 50% thiệt hại.  Vì vậy, bạn nên thỏa thuận với chủ xe về số tiền bồi thường sao cho thỏa đáng!

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    15/09/2011, 12:57:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu nội dung đúng như bạn trình bày (chú bạn mua của vợ chồng chú Dũng bằng giấy viết tay, đã thanh toán tiền rồi bán lại xe đó cho người khác) thì chú em không phạm tội gì cả.
            Em nói là công an "hỏi cung" vậy vụ việc có bị khởi tố không? hay công an chỉ gọi đến để trình bày sự việc?
            Pháp luật quy định việc chuyển nhượng, mua bán tài sản có đăng ký quyền sở hữu như nhà đất xe máy, oto... thì hợp đồng mua bán phải có công chứng và phải được đăng ký, sang tên mới hợp pháp. Sự việc của chú bạn mua xe của vợ chồng chú dũng có văn bản và bán xe cho người khác cũng có văn bản. Việc Hợp đồng không công chứng và chưa sang tên có thể làm cho hợp đồng mua bán vô hiệu theo quy định của luật dân sự chứ không phải vì thế mà cấu thành tội phạm hình sự.
            Vì vậy. chú bạn cứ yên tâm, không có dấu hiệu của bất kỳ tội phạm nào trong chuyện này đâu (nếu nội dung bạn trình bày là đúng). Nếu cần tư vấn thêm, bạn hãy liên lạc với tôi.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    15/09/2011, 12:55:13 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời như sau:
    1. Cả bạn và người cho thuê xe đều có lỗi. Nếu thiệt hại xảy ra trị giá từ 50 triệu đồng trở lên thì bạn có thể bị xử lý theo quy định tại Khoản 1, Điều 202 Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và người cho thuê xe sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 205 BLHS tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
    2. Nếu thiệt hại xảy ra dưới 50 triệu đồng thì không cấu thành tội phạm hai Bên nên thương lượng hòa giải với nhau. Trong trường hợp này cả hai đều có lỗi nên mỗi bên chịu thiệt hại 1/2 là có tình, có lý.
    Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn một số quy định của BLHS:

    "Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tận từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    #c00000;">e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng."

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    15/09/2011, 12:37:12 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn, tôi xin trả lời như sau:
    1. Giá trị pháp lý là sự giàng buộc mang tính chất pháp lý của các chủ thể được đề cập đến trong văn bản đó. Ví dụ: Các văn bản pháp luật, các quyết định hành chính, các hợp đồng, giao dịch... đã được xác lập theo đúng quy định của pháp luật. Còn Giấy xác nhận chỉ là văn bản ghi nhận lại sự việc đã xảy ra mà người ký vào văn bản đó tham gia, biết, hoặc chứng kiến sự việc đó nên thông thường Giấy xác nhận đó có giá trị pháp lý hay không thì người ta không đặt gia. Giấy xác nhận hoặc hủy xác nhận đó chỉ có thể là chứng cứ của một vụ việc nào đó nếu có cơ quan nhà nước xem xét giải quyết.
    2. Sự việc ở trường bạn có thể là một việc làm sai phạm của HT hoặc BGH nhà trường. Những sai phạm đó có nhiều giáo viên biết, họ đã lập biên bản xác nhận sự việc nhưng sau đó HT đã dùng áp lực bắt họ phải hủy văn bản đó và che giấu sự việc? Nếu muốn "đưa sự vệc ra ánh sáng" thì bạn có thể thu thập chứng cứ bằng các biện pháp khác như chụp ảnh, ghi âm... để có căn cứ giải quyết. Còn việc ký xác nhận hay hủy xác nhận không có tính chất quyết định trong vụ việc này do vậy bạn không nên quá bận tâm đến giấy xác nhận hay giấy hủy xác nhận đó. Vấn đề là nếu những giáo viên đó vẫn thừa nhận sự việc là đúng, khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết họ vẫn đứng ra làm chứng hoặc bạn có những chứng cứ khác thì sự việc đó vẫn bị xử lý theo pháp luật.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    15/09/2011, 12:23:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Theo thông tin bạn đưa ra thì vụ việc trên là giao dịch dân sự, không có dấu hiệu hình sự.
    Do vậy nếu Công an khởi tố vụ án để giải quyết là không đúng pháp luật!
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 03:23:17 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Trường hợp cô bạn được cấp giấy chứng nhận QSH NƠ nay thế chấp Ngân hàng và đang bị xử lý TSTC tôi xin trả lời như sau:
    1. Bác bạn cần có đơn yêu cầu tòa án cấp tỉnh giải quyết về tranh chấp quyền sở hữu ngôi nhà với cô bạn. Trong trường hợp này, bác bạn phải chứng minh được số tiền đã đưa cho cô bạn để xây nhà.
    2. Còn việc yêu cầu chia thừa kế thì đã hết thời hiệu nên tòa án sẽ không thụ lý giải quyết (ông bà bạn đã chết hơn 20 năm). Nếu các cô, các bác bạn đều thống nhất là tài sản của ông bà để lại chưa chia, và không tranh chấp về quyền thừa kế thì tòa án có thể căn cứ vào Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của HĐTP TAND TC để chia tài sản chung cho gia đình bạn!
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 03:11:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Việc bác bạn lấy tiền của chú bạn để mua đất, rồi ông bạn giao đất đó cho bố bạn sử dụng, bố bạn được cấp GCN và bác bạn muốn đòi lại, tôi có ý kiến như sau:
            Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định căn cứ xác lập quyền sử dụng đất như sau:

    "- Đất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.

    - Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

    - Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.".

           Như vậy, bố bạn phải chứng minh việc xác lập quyền sử dụng đất bằng một trong hai căn cứ sau đây: 1. Được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy chứng nhận lần đầu hợp pháp) hoặc được người khác chuyển quyền sử dụng đất (ông bạn cho).

             Qua hai căn cứ trên, theo kinh nghiệm của tôi thì việc bố bạn được cấp giấy chưa chắc đã hợp pháp (bởi ngường mua là bác bạn, rất có thể bác bạn có tên trên hồ sơ địa chính thời kỳ trước đây) Việc chuyển tên từ bác bạn cho bố bạn không có căn cứ. Còn ông bạn thì không có quyền gì để cho bố bạn thửa đất này bởi thửa đất không phải của ông. Do vậy bạn cần kiểm tra lại hồ sơ địa chính và hồ sơ cấp giấy của bố bạn.

             Luật đất đai năm 1993 và 2003 Không có điều luật nào quy định là đất ở không sử dụng thì bị thu hồi do vậy bác bạn vẫn có căn cứ để khởi kiện đòi đất của bố bạn!

    Thân ái!


  • Xem thêm     

    14/09/2011, 02:55:03 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    1. Việc ủy quyền được quy định tại chương VII BLDS, hợp đồng ủy quyền được quy định tại mục 12, chương XVIII Bộ luật dân sự. Còn Hợp đồng ủy thác được quy định tại Luật thương mại. Hai loại này có sự khác nhau về chủ thể, phạm vi, thủ tục và các trường hợp thực hiện.
    2. Việc hợp đồng có công chứng hay không không chỉ  phụ thuộc vào tư cách chủ thể mà còn phụ thuộc vào nội dung hợp đồng.
         Có một số trường hợp Hợp đồng bắt buộc phải có công chứng mới có giá trị pháp lý. Các trường hợp còn lại, nếu luật không quy định thì không cần công chứng vẫn có giá trị. Bạn có thể tham khảo các loại hợp đồng bắt buộc phải công chứng sau đây:
    - Hợp đồng mua bán nhà ở, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở (theo quy định tại Ðiều 450 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và điểm b, khoản 3, Ðiều 93 của Luật Nhà ở năm 2005).

    - Hợp đồng tặng cho nhà ở hoặc bất động sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, trừ bên tặng cho nhà ở là tổ chức (theo quy định tại khoản 1, Ðiều 467 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm d, khoản 3, Ðiều 93 của Luật Nhà ở năm 2005).

    - Hợp đồng thuê nhà ở từ 6 tháng trở lên, trừ trường hợp thuê nhà công vụ, thuê mua nhà ở xã hội và bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở (theo quy định tại Ðiều 492 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm b và c, khoản 3, Ðiều 93 của Luật Nhà ở năm 2005; khoản 4, Ðiều 62, Nghị định số 90/2006/NÐ-CP ngày 06-9-2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở).

    - Hợp đồng đổi, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở; theo quy định tại khoản 3, Ðiều 93 của Luật Nhà ở năm 2005.

    - Hợp đồng thế chấp nhà ở (theo quy định tại khoản 3, Ðiều 93 của Luật Nhà ở năm 2005).

    - Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất (theo quy định tại khoản 1, Ðiều 689 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm b, khoản 1, Ðiều 126; điểm b, khoản 1, Ðiều 127 của Luật Ðất đai năm 2003).

    - Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất (theo quy định tại điểm b, khoản 1, Ðiều 128 của Luật Ðất đai năm 2003).

    - Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (theo quy định tại điểm b, khoản 1, Ðiều 129 của Luật Ðất đai năm 2003).

    - Hợp đồng thế chấp (bảo lãnh) bằng quyền sử dụng đất (theo quy định tại điểm a, khoản 1, Ðiều 130 của Luật Ðất đai năm 2003).

    - Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất (theo quy định tại điểm a, khoản 1, Ðiều 131 của Luật Ðất đai năm 2003).
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 02:38:52 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào em!
    Em cần làm đơn xin xác nhận hoàn cảnh thuộc điểm b, khoản 1, Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự: " Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động" gửi tới UBND xã để xin xác nhận. Sau khi được xác nhận thì bạn gửi đơn xin tạm hoãn nghĩa vụ quân sự kèm theo giấy xác nhận tời Hội đồng NVQS để Hội đồng xem xét!
    Chúc thành công!
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 02:34:57 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu chuyện của bạn "không đáng lo" như bạn tưởng đâu!
    1. BLDS quy định về trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây nên thì dù bạn không có lỗi nhưng bạn sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ (xe máy, khí gas, chất độc ...) gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải bồi thường. Tuy nhiên, ở đây cả hai bên đều sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, cả hai bên đều có thiệt hại (chắc chắn bạn cũng phải có thiệt hại ít nhiều sau cú va chạm) nên các bên phái chịu trách nhiệm trong phạm vi lỗi của mình (nếu họ chạy sai đường, dừng xe đột ngột, rẽ không đúng... thì có thể bạn không phải bồi thường).
    2. Bạn có thể thương lượng lần nữa với ông ta xem sao? Nếu người đó yêu cầu bạn bồi thường vượt quá khả năng chi trả của bạn và không hợp lý như vậy thì bạn có thể từ chối bồi thường. Nếu cần có thể yêu cầu công an giải quyết và pháp luật sẽ bảo vệ bạn!
    3 Bạn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi lỗi của mình. Có lẽ ông chủ ô tô đó chưa từng là sinh viên! Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi!
    Chúc bạn may mắn!
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 02:16:05 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    1. Bạn nói không rõ (giai đoạn đầu và giai đoạn sau là gì?) Luật TTDS quy định: Tòa án xét xử hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) chức không quy định giai đoạt xét xử? Không hiểu giai đoạn mà bạn nói có phải là "cấp xét xử" theo quy định của pháp luật hay không?
    2.  Nếu bị đơn cố tình trốn tránh thì tòa án vẫn phải tiếp tục giải quyết, việc tống đạt các quyết định. văn bản của Tòa án có thể thực hiện theo quy định tại Điều 154 BLTTDS (thủ tục niêm yết công khai).
    3. Nếu bị đơn đã có lời khai, Tòa án đã tổ chức hòa giải, đối chất... thì Tòa án hoàn toàn có quyền xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 200, BLTTDS để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bạn.
    4. Bạn cũng cần xem lại nội dung ủy quyền: Có thể bạn chỉ ủy quyền cho người đó chuyển quyền sử dụng đất nhưng không ủy quyền nhận và sử dụng tiền chuyển nhượng do vậy bạn có thể yêu cầu công an xử lý người đó về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.
    5. Điều 189 và Điều 192 BLTTDS quy định các trường hợp tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án dân sự, trong đó nếu bị đơn cố tình trốn tránh thì không thuộc các quy định của hai điều luật trên nên bạn cần yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết theo quy định pháp luật.
    Chúc bạn thành công!

     
  • Xem thêm     

    14/09/2011, 12:44:43 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Theo tôi!
    Hợp đồng lần đầu 6 tháng với mức lương 85% có thể là hợp đồng thử việc (cũng cần xem lại nội dung cụ thể của hợp đồng này mới khẳng định chắc chắn được). Nếu là hợp đồng thử việc thì thời hạn ghi 6 tháng (vi phạm Điều 32 BLLĐ) thì cũng không làm nó trở thành hợp đồng chính thức được. Do vậy khó có căn cứ để xác định người sử dụng lao động vi phạm!