Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    09/06/2013, 08:40:37 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất mà gia đình bạn sử dụng vẫn là loại đất nông nghiệp và chưa được cấp GCN QSD đất. Do vậy, theo quy định pháp luật hiện hành thì gia đình bạn không thể xây dựng nhà ở trên diện tích đất nông nghiệp đó được. 

    Để xây dựng nhà ở "một cách hợp pháp" thì gia đình bạn cần làm thủ tục xin chuyển mục đích sử dụng đất và xin cấp GCN QSD đất đối với thửa đất đó. Nếu gia đình bạn thuộc hộ nghèo hoặc gia đình chính sách... thì có thể đồng thời làm đơn xin nợ tiền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    06/06/2013, 05:01:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu bạn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua một giao dịch hợp pháp thì bạn sẽ được cấp GCN QSD đất. Nếu giao dịch không hợp pháp (Chủ thể ký kết hợp đồng không đảm bảo điều kiện về chủ thể; Thửa đất không được phép chuyển nhượng hoặc không đủ điều kiện chuyển nhượng; Hình thức không đúng quy định pháp luật...) thì bạn sẽ không được cấp GCN QSD.

    Nếu bạn được cấp GCN QSD đất với thời hạn 50 năm thì khi hết thời hạn sẽ được xem xét gia hạn, nếu không được xem xét gia hạn thì Nhà nước sẽ thu hồi.

  • Xem thêm     

    06/06/2013, 04:05:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Nếu một người đã thành niên và tự mình tham gia giao dịch vay tài sản thì chỉ mình họ phải chịu trách nhiệm, gia đình không phải liên đới chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ đó.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 11:54:04 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                 Theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai thì tranh chấp về quyền sử dụng đất (về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất) thì mới bắt buộc phải hòa giải và thời gian chuẩn bị hòa giải là 30 ngày kể từ ngày UBND xã nhận được đơn đề nghị hòa giải. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ thụ lý căn cứ vào quy định tại Điều 135 - 136 Luật đất đai và khoản 7, Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự.

                Nếu tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì không bắt buộc phải hòa giải cơ sở. Tòa án sẽ căn cứ vào quy định tại khoản 3, Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 11:44:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    Nếu bác sử dụng thửa đất đó ổn định, liên tục từ trước ngày 15/10/1993 nay không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch thì bác được cấp GCN QSD đất mà KHÔNG PHẢI NỘP TIỀN sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Nếu có nhu cầu cấp GCN QSD đất thì bác có thể liên hệ với UBND xã để nộp đơn và hồ sơ xin cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 11:39:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Thông thường việc xác định các thành viên nào trong hộ gia đình được cấp GCN QSD đất (đồng sở hữu tài sản) thường căn cứ vào những người có tên trong hộ khẩu tại thời điểm được cấp GCN QSD đất. Tuy nhiên, có một số trường hợp phải căn cứ vào hộ gia đình thời điểm giao đất, chia đất... Ví dụ: Hộ gia đình được giao đất trong thời kỳ cải cách ruộng đất (chia đất theo nhân khẩu); Hộ gia đình khai hoang; Hộ gia đình được giao đất...

    Do vậy, việc xác định những ai trong hộ gia đình là đồng sở hữu bất động sản đó không phải khi nào cũng căn cứ vào những người có tên trong hộ khẩu tại thời điểm cấp GCN QSD đất.

    Nếu bạn là bên cho vay tài sản thì cần tìm hiểu thêm về nguồn gốc thửa đất đó. Nếu không có thông tin gì khác thì phải yêu cầu tất cả các thành viên trong hộ gia đình có tên trong hộ khẩu thời điểm cấp GCN QSD đất ký hợp đồng, trừ các thành viên dưới 15 tuổi tính cho đến thời điểm ký hợp đồng thế chấp.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 11:21:37 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu hồ sơ về nguồn gốc đất của gia đình bạn thể hiện sử dụng ổn định trước 15/10/1993 thì được bồi thường về quyền sử dụng đất, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Hạn mức đất giao tái định cư

    Hạn mức giao đất tái định cư đối với từng địa phương do UBND cấp tỉnh quy định. Do vậy có thể diện tích đất bị thu hồi lớn hơn hoặc nhỏ hơn diện tích dất được tái định cư.

    Nếu có nội dung nào chưa rõ thì bạn có quyền thắc mắc để các cán bộ có thẩm quyền giải quyết. Nếu không được giải quyết thỏa đáng thì bạn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 10:55:53 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì công ty đã vi phạm bộ luật lao động và vi phạm hợp đồng lao động đã được hai bên ký kết. Vì vậy, nếu bạn không thể thương lượng được với công ty về việc trả lương những tháng chưa nhận thì bạn có quyền khởi kiện tới Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 10:50:03 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn là người cho vay tiền, đang là người bị hại, là nạn nhân trong vụ việc "xù nợ" thì làm sao mà bị công an phạt được? Nếu bạn không có nghề nghiệp gì mà chỉ chuyên cho vay nặng lãi và mức lãi suất vượt quá 10 lần mức quy định của nhà nước thì mới có thể bị xử lý về tội cho vay nặng lãi...

    Nếu người đó vay tiền của bạn rồi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Bạn có thể gửi đơn trình báo sự việc trên với Công an nơi bạn giao tiền cho người đó để được giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 10:41:35 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp trường hợp bạn nêu thì hai bên tham gia ký kết hợp đồng có chung một chữ ký. Tuy nhiên, tư cách pháp lý của hai chữ ký đó là khác nhau: Một là nhân danh pháp nhân, thay mặt pháp nhân, còn môt bên là cá nhân, nhân danh chính mình. Do vậy, về mặt pháp lý thì không có vi phạm gì về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, không làm ảnh hưởng về nội dung của hợp đồng so với các chủ thể khác.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 10:33:18 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Tùy vào cách hành văn của bạn hoặc ghi nguyên như nội dung bạn nêu trên. Miễn là tiền lương đó không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 10:02:19 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bộ luật lao động năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01/5/2013 quy định:

    "Điều 36. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động

    1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

    2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.

    3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

    4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.

    5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

    6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

    7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

    8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.

    9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.

    10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.


    Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ

    1. Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp sau đây:

    a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;

    b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

    2. Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.

    3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

    4. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động.

    5. Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.".

    Như vậy, theo quy định của pháp luật thì chỉ hạn chế người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kết hôn, mang thai... của người lao động. Còn trường hợp hết hạn hợp đồng lao động thì dù người lao động mang thai cũng vẫn phải chấm dứt hợp đồng nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đối chiếu với các quy định nêu trên thì công ty của vợ bạn không vi phạm pháp luật về lao động.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 07:44:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Hành vi vay tiền rồi bỏ trốn, mượn tài sản rồi mang đi cầm cố là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Do vậy, bạn có thể gửi đơn tới công an để trình báo toàn bộ sự việc trên và yêu cầu giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 07:19:35 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Việc vay nợ của gia đình bạn là quan hệ dân sự. Nếu bạn sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ hoặc bỏ trốn nhằm trốn nợ thì mới bị xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Theo thông tin bạn nêu thì bạn không phạm tội gì cả. Nếu bạn không trả được nợ thì người cho vay có thể kiện bạn tới Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Khi đó Tòa án chỉ buộc bạn phải trả cho người đó tiền nợ gốc còn lại và lãi suất không quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Nếu bạn không có chứng cứ về việc đã trả gốc, trả lãi thì coi như chưa trả nợ (nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc về các bên đương sự, nếu không chứng minh được thì phải chấp nhận thua thiệt).

    - Việc vay nợ là quan hệ dân sự hợp pháp không ảnh hưởng đến việc bạn là cán bộ, công chức. Nếu người cho vay quấy nhiễu làm ảnh hưởng tới việc làm và cơ quan bạn thì bạn chỉ có thể bị khiển trách, nhắc nhở...

  • Xem thêm     

    05/06/2013, 07:06:25 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc của bạn là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp về quyền sử dụng đất nên không bắt buộc phải hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai (tuy nhiên không phải cán bộ Tòa án nào cũng hiểu như vậy- có nhiều Tòa án cư liên quan đến đất đai như tranh chấp thừa kế, chia tài sản chung, ly hôn... đều phải hòa giải thì mới thụ lý...).

    Nếu hợp đồng chuyển nhượng của bạn không xuất phát từ ý chí thực của hai bên (mua bán thực sự) mà chỉ như một biện pháp đảm bảo của hợp đồng vay tài sản (vay nợ nhưng lập hợp đồng chuyển nhượng để xử lý nợ) thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo (Điều 129 BLDS) và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137BLDS.

    Nếu việc chuyển nhượng của bạn là thực, đã giao tiền nhưng bên chuyển nhượng vi phạm hợp đồng thì Tòa án sẽ công nhận hợp đồng và buộc bên chuyển nhượng phải giao nhà cho bạn và thực hiện thủ tục sang tên cho bạn.

  • Xem thêm     

    04/06/2013, 10:08:16 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu vợ chồng anh B sử dụng khoản tiền vay đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt khoản tiền đó thì mới phạm tội và bị xử lý về hình sự.

    Nếu không có sự việc nêu trên mà hai bên không ngồi lại được với nhau, nhà trường không can thiệp  thì bạn chỉ còn một cách đòi tiền là khởi kiện tới Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    04/06/2013, 06:43:30 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc xác lập quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu chỉ áp dụng với các tài sản vô chủ hoặc không xác định được chủ sở hữu. Còn đối với các tài sản đã "có chủ, có người quản lý" thì không áp dụng quy định pháp luật này.

  • Xem thêm     

    04/06/2013, 06:39:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Pháp luật VN hiện nay không có tội "chạy trường". Với hành vi như bạn mô tả thì bạn có thể phạm tội làm môi giới hối lộ theo quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, nếu bạn còn liên quan đến việc làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức thì còn bị xử lý về tội này theo quy định tại Điều 267 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

    Điều 290. Tội làm môi giới hối lộ

    1. Người nào làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      c) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
      d) Phạm tội nhiều lần;
      đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
      e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm:
      a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
      a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
    6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

      Điều 267. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

    7. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    8. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Phạm tội nhiều lần;
      c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
      d) Tái phạm nguy hiểm.
    9. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bốn năm đến bảy năm.
    10. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
  • Xem thêm     

    04/06/2013, 06:33:00 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc của chú bạn là tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn. Nếu việc phân chia tài sản chung và thanh toán các nghĩa vụ về tài sản như thế nào do hai bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ giải quyết theo pháp luật trên nguyên tắc: Tài sản chung thì chia đôi nhưng có xét tới nguồn gốc và công sức đóng góp, đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Nghĩa vụ chung thì cùng phải chịu trách nhiệm. Với tài sản riêng, nghĩa vụ riêng thì của ai thuộc về người đó.

    Giao dịch với người mua đất và với luật sư là do vợ của chú bạn tự thực hiện nên phải tự chịu trách nhiệm cá nhân về việc đó.

  • Xem thêm     

    04/06/2013, 06:25:47 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Để nhận chuyển nhượng thửa đất đó một cách hợp pháp thì thủ tục chuyển nhượng bắt buộc phải có chữ ký của tất cả các thành viên trong hộ gia đình đó.

    Với thành viên đang cư trú tại nước ngoài thì có thể lập văn bản ủy quyền cho người khác ở trong nước thay mặt họ định đoạt bất động sản đó. Văn bản ủy quyền phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật.