Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang «<62636465666768>»
  • Xem thêm     

    24/11/2011, 08:27:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc của bạn đang được công an giải quyết. Nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm, đủ căn cứ khởi tố thì công an sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can để xử lý theo pháp luật. Nếu bạn có được thông tin gì về tội phạm thì có thể cung cấp cho công an để nhanh chóng giải quyết vụ việc. Nếu cần tư vấn thêm, bạn có thể liên lạc với tôi qua số điện thoại cá nhân vào ngày cuối tuần hoặc 19h-21h hàng ngày.
  • Xem thêm     

    24/11/2011, 08:18:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Bạn hãy tham khảo ý kiến của Luật sư Quyển.
    Nếu bạn chưa nộp Đăng ký xe thì khi nộp nhớ ghi biên bản giao nhận hoặc yêu cầu công an ghi nội dung giao nhận đăng ký xe vào biên bản làm việc.
  • Xem thêm     

    24/11/2011, 12:59:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Bạn có thể tham khảo nội dung tư vấn của Luật sư Phạm Tiến Quyển ở trên.
  • Xem thêm     

    24/11/2011, 12:52:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
              Theo quy định của pháp luật thì bản chính và bản sao các giấy tờ tài liệu đều có giá trị như nhau nên có thể sử dụng bản sao thay cho bản chính. Trong hoạt động tố tụng dân sự thì ít khi Tòa án giữ bản chính (trừ một số trường hợp quan trọng, đặc biệt). Trong hoạt động tố tụng hình sự thì cơ quan điều tra thường giữ bản chính các giấy tờ tài liệu liên quan đến vụ án và có thể xem nó là vật chứng theo quy định tại Điều 74 BLTTHS. 
               Trong trường hợp mất xe thì công an hay yêu cầu chủ xe cung cấp bản chính đăng ký xe (nếu còn) để chứng minh tư cách của người bị hại. Vấn đề của em bạn là có thể tìm lại được xe hay không, còn giấy tờ xe thì cơ quan tố tụng sẽ trả lại sau khi kết thúc vụ việc.
  • Xem thêm     

    19/11/2011, 06:14:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

           "Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

    1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

      Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

      Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."


    1.          Như vậy chỉ có những trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hai theo quy định tại Điều 105 BLTTHS thì việc rút đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại mới làm cho vụ án được "dừng lại".


    1.          Trong trường hợp của bạn, Công an khởi tố vụ án không phải là theo YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI theo quy định tại Điều 105 BLTTHS mà là do vụ án có dấu hiệu tội phạm và đơn yêu cầu khởi tố của bạn chỉ là một thông tin về tội phạm chứ không phải là căn cứ khởi tố vụ án. Do vậy việc có đơn bãi nại của bạn hay không "không nhiều ý nghĩa"! Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS, không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 105 BLTTHS.


    1.          Tuy vậy, bạn vẫn có thể có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bạn đối với bị cáo có thể được xem như một tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Nội dung đơn chỉ cần bạn nêu lý do và yêu cầu xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là được. Đơn có thể gửi cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án (cơ quan đang thụ lý vụ án).


  • Xem thêm     

    18/11/2011, 11:22:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Không có gì, chào bạn!
  • Xem thêm     

    17/11/2011, 10:12:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Theo tôi: Trước hết bạn có thể báo công an xem hành vi trốn nợ có dấu hiệu của Tội lạm dụng tín nhiệm theo quy định tại Điều 140 BLHS hay không?
            Nếu không có dấu hiệu hình sự thì bạn có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự như hướng dẫn của Luật sư Nguyễn Đình Hùng.
  • Xem thêm     

    17/11/2011, 06:27:41 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                1. Điều 326 BLDS quy định: Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.
                 Điều 163 quy định: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Theo đó giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (đăng ký xe. GCN QSD đất...) không phải là tài sản (chỉ là giấy tờ ghi nhận quyền tài sản ,cũng không phải là giấy tờ có giá) nên  chủ  sở hữu tài sản không thể đem cầm cố giấy tờ sở hữu (chỉ có thể cầm cố xe và giấy tờ xe).
                Giấy tờ sở hữu nói chung và giấy tờ xe nói riêng chỉ có thể mang THẾ CHẤP theo quy định tại Điều 342 BLDS, đồng thời chỉ có chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền mới có quyền mang giấy tờ sở hữu đi thế chấp để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ dân sự.
                2. Theo thông tin mà bạn nêu thì chủ tiệm cầm đồ nhận cầm cố giấy tờ xe của bạn là trái pháp luật. Do vậy, bạn có thể trình báo sự việc với công an trên địa bàn để yêu cầu chủ tiệm cầm đồ trả lại giấy tờ xe cho bạn.
  • Xem thêm     

    16/11/2011, 02:50:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng. Điều 105 BLTTHS quy định như vậy! Ý bạn muốn nói ở đây là gì?
  • Xem thêm     

    13/11/2011, 09:21:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

             Theo thông tin bạn nêu ra thì thời điểm em bạn lấy trộm 27 triệu đồng nhà hàng xóm, em bạn đã đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi. Do vậy, em bạn chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự  đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    Khoản 3, Điều 8 BLHS quy định về các loại tội phạm như sau: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”.

    Điều 138 BLHS quy định về tội trộm cắp tài sản như sau:

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”.

    Như vậy, hành vi của em bạn thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 138 BLHS, hình phạt cao nhất 3 năm tù, là loại tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại khoản 3, Điều 8 BLHS. Trong khi đó em bạn chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý (khung hình phạt lên đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (hình phạt trên 15 năm, chung thân hoặc tử hình).

    Do vậy, trong tình huống trên, em bạn chưa phạm tội, chính xác là chưa phải chịu trách nhiệm hình sự do chính sách khoan hồng của Nhà nước ta với trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, hành vi này là đáng chê trách, do vậy gia đình và nhà trường cần giáo dục em đó để tránh lặp lại những hành vi tương tự.

  • Xem thêm     

    13/11/2011, 08:12:19 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

            1. Việc vay nợ là giao dịch dân sự, tuy nhiên có một số trường hợp có thể chuyển hóa thành quan hệ pháp luật hình sự (tội phạm): Ví dụ nếu vay nợ, sau đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền vay đó hoặc sử dụng tài sản vào mục đích phi pháp (sai mục đích vay) dẫn đến không còn khả năng thanh toán thì sẽ cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Do vậy bạn cần xem lại việc sử dụng tiền vay của gia đình bạn có đúng mục đích hay không?

            Bạn tham khảo quy định sau đây tại Điều 140 BLHS:

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

              2. Nếu trường hợp vay nợ của bạn không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm theo quy định tại Điều 140 nêu trên (không bỏ trốn, không sử dụng tài sản vào mục đích phi pháp) thì chỉ là giao dịch dân sự. Nếu bên cho vay khởi kiện thì Tòa án sẽ buộc gia đình bạn phải trả nợ (chỉ cần giấy vay nợ viết tay Tòa  án cũng chấp nhận). Trong quá trình Tòa án giải quyết, chủ nợ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm chuyển dịch tài sản để đảm bảo thi hành án. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì gia đình bạn phải có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ theo bản án. Nếu gia đình bạn không chấp hành bản án thì cơ quan thi hành án sẽ kê biên, phát mại tài sản của gia đình bạn (kể cả nhà đất) để thi hành bản án mà Tòa án đã tuyên.

              3. Bạn cũng lưu ý là việc vay nợ lãi cao thường liên quan đến “đầu gấu, xã hội đen” chuyên đòi nợ thuê. Hiện nay rất nhiều tội phạm (giết người, cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản, giam giữ người trái pháp luật…) xuất phát từ việc đòi nợ và đòi nợ thuê. Nhiều chủ nợ không cần đến Tòa án dân sự mà ủy quyền luôn cho đối tượng “có nghề thu hồi nợ” để họ làm thay “tòa án!”. Việc ủy quyền thu hồi nợ là hợp pháp. Nếu đối tượng thu hồi nợ phạm pháp thì chỉ có họ phạm tội mà chủ nợ không việc gì (bởi trong ủy quyền không quy định phương thức đòi nợ mà chỉ ghi chung chung là thu hồi nợ còn việc xử lý của những người đòi nợ thuê thế nào thì họ tự làm và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật), mức chi phí chỉ khoảng 10% là “xong” việc… Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay, lực lượng, băng nhóm đòi nợ thuê ngày càng nhiều, không chỉ có những đối tượng nghiện ngập, vào tù ra tội mà có cả một số đối tượng thuộc tầng lớp trí thức như học sinh, sinh viên cũng tham gia “làm thêm” “và phạm pháp”...

               Do vậy, cách tốt nhất là gia đình bạn nên thỏa thuận, thương lượng với chủ nợ về khoản vay đó (phương thức và thời hạn trả nợ). Nếu để vụ việc căng thẳng, họ không khởi kiện dân sự, không báo công an mà lại dùng cách đòi nợ theo kiểu “chợ đen” thì gia đình bạn sẽ rất mệt mỏi.

  • Xem thêm     

    07/11/2011, 06:27:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư nhất trí với ý kiến của bạn!
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 08:38:03 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Luật sư đã trả lời!
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 03:35:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Với thông tin sơ lược, một chiều thì chưa thể biết được hình phạt cụ thể. Hình phạt sẽ được Tòa án áp dụng căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ở nước ta thì những tình tiết phải được thể hiện tại Hồ sơ vụ án.
            Với những thông tin một chiều thì Luật sư chỉ có thể "đoán" được tội phạm và khung hình phạt, còn mức hình phạt thì phải kết thúc giai đoạt điều tra thì mới biết được.
            Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra vận dụng mọi kỹ năng nghiệp vụ, thu thập chứng cứ (kết tội, buộc tội) để  "trả lời câu hỏi" đó của bạn. Khi họ chưa hoàn thành công việc điều tra thì chưa thể có câu trả lời cho bạn. Viện kiểm sát cũng chỉ ra bản CÁO TRẠNG sau khi có Kết luận điều tra. Tóm lại, nếu tham gia vụ việc và sau khi đọc hồ sơ vụ án thì Luật sư mới có thể trả lời câu hỏi này của bạn.
  • Xem thêm     

    04/11/2011, 09:49:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Việc cấu thành tội cướp tài sản hay không phụ thuộc vào khả năng chống cự của nạn nhân. Nếu việc chống cự đó không đủ sức để bảo vệ tài sản, kết quả vẫn LÂM VÀO TÌNH TRẠNG KHÔNG THỂ CHỐNG CỰ ĐƯỢC thì vẫn cấu thành tội cướp tài sản. Còn nếu bị nạn nhân chống cự nhưng nhưng yếu ớt, thủ phạm vẫn giật được tài sản và nhanh chóng tẩu thoát thì sẽ thành tội Cướp giật tài sản. Còn nếu nạn nhân chưa tê liệt ý chí mà chỉ bị đối tượng ép buộc để giao tài sản (có thể giao, có thể không) thì phạm tội Cưỡng đoạt tài sản.
            Tóm lại việc nạn nhân có chống cự hay không không quan trọng, điều quan trọng là cuối cùng nạn nhân bất lực, tê liệt ý trí trước việc dùng vũ lực, sự đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác (thuốc mê, thuốc độc..) của đối tượng đó thì trường hợp đó phạm tội Cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.
  • Xem thêm     

    03/11/2011, 09:30:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

          1. Điều 138 BLHS quy định Tội trộm cắp tài sản như sau:

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

              2. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì hành vi trộm cắp tài sản trên thuộc khoản 1 Điều 138 BLHS và có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h và p khoản 1, Điều 46 BLHS. Nếu không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS thì bạn đó có thể bị xử ở mức thấp nhất của khung hình phạt và có thể được hưởng án treo.
  • Xem thêm     

    03/11/2011, 08:36:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu thương tích dưới 11% thì người bạn đó chỉ phạm tội nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    "a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân."

                Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn như sau:

    "Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân" là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.".

            Nếu chỉ vì lý do nhỏ nhặt mà phạm tội thì đó là "tính chất côn đồ", Dùng dao  sắc, nhọn để gây án là "hung khí nguy hiểm". Do vậy, trong trường hợp này, nếu thương tích dưới 11% cũng vẫn có thể phạm tội. Người bạn đó chỉ thoát tội nếu hành vi phạm tội thuộc khoản 1, Điều 104 BLHS và bị hại rút đơn theo quy định tại Điều 105 BLTTHS.


  • Xem thêm     

    03/11/2011, 08:04:49 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Tất cả các Luật sư đều rất bận trong công việc của mình. Thời gian giao lưu, trao đổi trên diễn đàn rất hạn hẹp nên không tránh khỏi những sai sót trong cách dùng từ, đặt câu hoặc có đôi chút nhầm lẫn. Hi vọng mọi người hãy thông cảm và cùng chia sẻ!
  • Xem thêm     

    03/11/2011, 08:00:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Điều 138. Tội trộm cắp tài sản

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    #ff0000;">4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    #ff0000;">a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

  • Xem thêm     

    03/11/2011, 07:27:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Nếu người bạn đó thực sự ăn năn, hối cải thì có thể sẽ được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Bạn đó thuộc đối tượng vị thành niên nên pháp luật cũng có những quy định đặc thù cho người vị thành niên. Bạn có thể tìm hiểu các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội tại Chương X BLHS để biết thêm chi tiết. Để được hưởng thêm sự khoan hồng của pháp luật, bạn đó phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều 46 BLHS và ít tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS. Bạn có thể tham khảo các quy định về tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sau đây để tư vấn cho bạn của mình nhé:
    Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

    đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

    e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

    k) Phạm tội do lạc hậu;

    l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    m) Người phạm tội là người già;

    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    o) Người phạm tội tự thú;

    p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

    q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

    r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

    2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật

    Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

    Điều 48. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

    1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

    a) Phạm tội có tổ chức;

    b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

    d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

    đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

    e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

    g) Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;

    h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

    i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước;

    k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;

    l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

    m) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    n) Xúi giục người chưa thành niên phạm tội;

    o) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.

    2. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.”

69 Trang «<62636465666768>»