Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

129 Trang «<43444546474849>»
  • Xem thêm     

    12/09/2013, 02:30:02 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn đọc văn bản nào thay thế hoặc hủy bỏ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao?

    Bạn tham khảo Văn bản tại đường dẫn sau: http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thu-tuc-To-tung/Nghi-quyet-02-2004-NQ-HDTP-huong-dan-ap-dung-phap-luat-trong-viec-giai-quyet-cac-vu-an-dan-su-hon-nhan-va-gia-dinh/52382/noi-dung.aspx

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
    ********

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ********

    Số: 02/2004/NQ-HĐTP

    Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2004

     

    NGHỊ QUYẾT

    HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    Căn cứ vào Luật Tổ chức Toà án nhân dân;
    Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;
    Sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

    QUYẾT ĐỊNH

    I. VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI HIỆU

    1. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với các giao dịch dân sự

     

    ............2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:

    a. Trường hợp nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    a.1. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì buộc họ phải trả cho bên chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    a.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    b. Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    b.1. Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng.

    b.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    c. Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận chuyển nhượng nhưng chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    d. Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này.

    đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)

    Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:

    a. Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b. Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

    b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

    b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;

    b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.

    2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a. Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b. Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a gia tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

    c. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

    c.3. Xác định thiệt hại.

    - Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

    Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

    - Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

    Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    - Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.

    2.4 Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã đã bị giải thể.

    Đối với đất đã được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã để sử dụng chung trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hoá nông nghiệp mà sau khi tập đoàn sản xuất, hợp tác xã bị giải thể thì căn cứ vào quy định tại Điều 1 của Luật Đất đai năm 1987, khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2003 cần phân biệt như sau:

    a. Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó không có quyền đòi lại quyền sử dụng đất nếu đất đó đã được giao cho người khác sử dụng và họ đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, trừ trường hợp có căn cứ chứng minh người đang sử dụng đất đó có hành vi gian dối, lừa đảo... để được giao quyền sử dụng đất.

    b. Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó có quyền đòi lại quyền sử dụng đất hoặc giá trị quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    - Đất không bị Nhà nước quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    - Chủ cũ có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003;

    - Người đang sử dụng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và cũng không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 vì lý do người đó sử dụng đất là ở nhờ, mượn, thuê, lấn, chiếm đất hoặc bằng các giao dịch dân sự khác trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

    III. VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN DO NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG

    1. Tài sản được nhà nước cấp cho người có công với cách mạng

    1.1. Trường hợp người có công với cách mạng được nhận tài sản trong thời kỳ hôn nhân khi họ còn sống thì tài sản được coi là tài sản riêng của người đó, trừ trường hợp họ đã nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Khi họ chết thì tài sản đó để lại cho các thừa kế của họ.

    1.2. Trường hợp sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyết định cho họ được hưởng tài sản theo quy định của pháp luật thì tài sản đó là di sản để lại cho các thừa kế của họ.

    2. Tài sản được Nhà nước cấp cho thân nhân của người có công với cách mạng

    Nếu sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật và giữa các thân nhân của người đó có tranh chấp về tài sản và yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung. Khi giải quyết cần phân biệt như sau:

    a. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ghi cụ thể tên người được hưởng tài sản, thì chỉ người có tên mới được hưởng tài sản đó.

    b. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ghi rõ người được hưởng tài sản gồm những người cụ thể nào mà chỉ ghi cấp chung cho thân nhân của người có công với cách mạng, thì thân nhân của người đó được hưởng chung. Việc xác định ai là thân nhân của người có công với cách mạng trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo qui định của Chính phủ.

    Ví dụ: Theo quy định tại Điều 5 của Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở thì thân nhân của người có công với cách mạng là vợ, chồng, các con của người đó.

    Nếu trong văn bản pháp luật Chính phủ không qui định cụ thể ai là thân nhân của người có công với cách mạng mà chỉ qui định chung là thân nhân thì thân nhân của người có công với cách mạng gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người có công với cách mạng.

    IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT

    1. Nghị quyết này được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 10 tháng 8 năm 2004 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

    Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.

    2. Đối với những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.

    3. Đối với các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định có những căn cứ khác.

     

     

    Nguyễn Văn Hiện

    (Đã ký)

     

     

  • Xem thêm     

    12/09/2013, 07:55:43 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Đối với việc cấp GCN QSD đất: Sự việc của gia đình bạn không chỉ cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà là chuyển quyền sử dụng đất từ cha bạn sang cho bạn.

    - Nếu GCN QSD đất cấp cho bạn có thay đổi diện tích so với GCN QSD đất so với diện tích trước đây và khác với diện tích đất thực tế sử dụng thì gia đình bạn cần làm đơn gửi tới phòng TN&MT để đính chính lại GCN QSD đất vì cấp sai diện tích;

    -  Nếu GCN QSD đất của gia đình bạn đứng tên bố bạn trước đây cấp sai về diện tích (diện tích đất trong GCN QSD đất lớn hơn diện tích đất thực tế) nay chuyển quyền sử dụng đất cho bạn, chính quyền địa phương đã đo đạc lại và cấp GCN QSD đất đúng với diện tích đất thực tế mà gia đình bạn đang sử dụng thì gia đình bạn không thể đính chính lại GCN QSD đất được nữa. GCN QSD đất chỉ là giấy tờ ghi nhận thông tin về quyền sử dụng đất, thông tiin đó phải phù hợp với thực tế..

    2. Đối với việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Nếu kích thước thửa đất thực tế có chiều sâu là 25m, kích thước ghi trong GCN QSD đất là sai thì sau khi đính chính lại GCN QSD đất thì gia đình bạn làm thủ tục sang tên cho anh đó là xong.

    - Nếu thực tế kích thước chỉ có 20m chiều dài và GCN QSD đất không thay đổi được. Người đó nhận chuyển nhượng tính theo m2 thì gia đình bạn phải cắt thêm đất cho người đó để trả lại diện tích đất mà gia đình họ đã nhận chuyển nhượng.

    - Nếu hai bên không thương lượng được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án sẽ căn cứ vào Bộ luật dân sự, Luật đất đai và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để giải quyết.

  • Xem thêm     

    12/09/2013, 07:23:14 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất đồi, núi đó được gia đình bạn sử dụng từ lâu (thời ông bà tới nay). Tuy nhiên, bạn không cung cấp thông tin về giấy tờ pháp lý của thửa đất đó thế nào: Ông bà bạn khai hoang hay được chính quyền giao? Thửa đất đó có đóng thuế không? Đã được cấp GCN QSD đất chưa? Giấy tờ tên ai?... nên luật sư chưa thể có câu trả lời cụ thể cho bạn được.

    2. Nếu thửa đất đó có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 hoặc khoản 5, Điều 50 Luật đất đai đứng tên ông bà nội bạn và ông bà nội bạn đã qua đời không để lại di chúc thì di sản đó thuộc về các thừa kế của ông bà bạn: Quyền lợi của bố bạn và bác bạn ngang nhau về thừa kế theo pháp luật. Bố bạn có công duy trì, tu tạo di sản thì sẽ được thêm phần công sức đó. Nếu hai bên không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, việc tranh chấp về quyền thừa kế chỉ có thời hiệu khởi kiện 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có di sản chết). Nếu cả ông bạn và bà bạn đều đã chết quá 10 năm thì nay có tranh chấp tòa án cũng không thụ lý, giải quyết.

    3. Nếu ông bà bạn không có giấy tờ gì về quyền sử dụng đất đối với thửa đất đó; ông bà bạn đã chết quá 10 năm; Bác bạn cũng không có giấy tờ pháp lý về thửa đất đó. Đồng thời gia đình bạn đã sử dụng ổn định, liên tục, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 3, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP thì gia đình bạn được công nhận quyền sử dụng đất, bác bạn không thể đòi chia phần ở thửa đất đó..

  • Xem thêm     

    10/09/2013, 10:49:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu thửa đất đó là của Ông để lại cho Cha, Cha để lại cho bạn thì bạn phải có tài liệu, chứng cư về việc chuyển quyền sử dụng đất đó thì bạn mới được cấp GCN QSD đất. Nếu đất đai có nguồn gốc, bút tích là của ông bạn hoặc cha bạn thì người được cấp GCN QSD đất là ông bạn hoặc cha bạn.

    Theo quy định của pháp luật thì ai được coi là sử dụng ổn định, liên tục, không có tranh chấp theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 3, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP thì được công nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

     

  • Xem thêm     

    08/09/2013, 07:13:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) cấp lần đầu cho bố bạn, sau đó bố bạn đã ký hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng.... với bạn và đăng ký sang tên bạn (bạn có tên ở trang thứ 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó: Đã đăng ký sang tên cho ông Nguyễn Văn A theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ký ngày... tại phòng công chứng...) thì chủ quyền thuộc về bạn. Bạn có toàn quyền quyết định đối với thửa đất đó.

    Nếu bạn muốn cấp GCN QSD đất mới mà chỉ có tên bạn thì bạn có thể nộp hồ sơ vào Phòng Tài nguyên và Môi trường của huyện nơi có thửa đất đó để xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (do bị rách, hỏng hoặc để được cấp theo mẫu mới quy định tại Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT) mà không cần phải kê khai từ cấp xã như thủ tục cấp mới lần đầu.

  • Xem thêm     

    08/09/2013, 07:04:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn có thể điền nội dung sau:

    Đơn khởi kiện về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    Yêu cầu toà án giải quyết những vấn đề sau đây với bị đơn,người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan:

    - Buộc bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải thực hiện đúng các thỏa thuận tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số..... ký ngày..... giữa công ty......... với tôi.

    - Hoặc bạn có thể yêu cầu: Tòa án xem xét hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên chuyển nhượng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho tôi từ hợp đồng trên, tổng giá trị thiệt hại ước tính đến thời điểm này là........ đồng.

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 11:40:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Có lẽ họ biết việc làm sai trái không hù dọa được gia đình bạn nên thôi... hoặc đang ủ mưu khác..

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 11:35:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Nếu 7 người đồng sở hữu tài sản là toàn bộ quyền sử dụng thửa đất đó thì trên giấy chứng nhận quyến sử dụng đất phải ghi tên cả 7 người (cá nhân). Nếu GCN QSD đất vẫn đứng tên 1 người thì không thể xác định là đồng sở hữu được;

    - Nếu nhà ở có Giấy chứng nhận quyền sở hữu thì mới có thể ủy quyền một các hợp pháp được;

    - Nếu căn nhà gia đình bạn xây dựng sau năm 2004 và vi phạm trật tự xây dựng thì có thể bị UBND cấp huyện cưỡng chế tháo dỡ.

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 11:31:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Nếu bạn gửi đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai đến UBND xã để yêu cầu hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai thì bắt buộc phải có biên bản hòa giải không thành của UBND xã thì bạn mới khởi kiện được.

    - Nếu bạn gửi đơn tới xã để khiếu nại, tố cáo và UBND xã không giải quyết khiếu nại tố cáo trong thời gian luật định thì bạ có thể gửi đơn tới cấp trên trực tiếp;

    - Nếu UBND xã vi phạm về thời hạn giải quyết đơn thư thì bạn có thể khiếu nại tới chủ tịch UBND xã hoặc chủ tịch UBND huyện để được xem xét giải quyết.

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 04:25:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:


    - Theo thông tin ban nêu thì ngôi nhà đó đang đứng tên chị gái của mẹ bạn (khi lập hợp đồng mua bán nhà thì chị giái của mẹ bạn đứng tên là bên mua nhà) do vậy về mặt pháp lý thì chị gái của mẹ bạn có toàn quyền quyết định đến ngôi nhà đó.

    - Do vậy, để đảm bảo được quyền lợi của mẹ bạn thì mẹ bạn cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để chứng minh là: Người mua là là ông ngoại bạn chứ không phải là bác bạn; Người thực hiện giao dịch, thanh toán tiền là ông ngoại bạn; Bác bạn chỉ là người đứng tên giùm; Số tiền mua nhà đó là ông ngoại bạn vay một phần của bác bạn, một phần của mẹ bạn... Nếu mẹ bạn chứng minh được nội dung như vậy thì ngôi nhà đó sẽ là di sản thừa kế của ông ngoại bạn. Nếu ông bạn không có di chúc thì ngôi nhà đó sẽ thuộc về các thừa kế của ông ngoại bạn theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 Bộ luật dân sự (cha. mẹ, vợ và các con của người chết. Nếu con của người có di sản đã chết trước hoặc chết cùng người có di sản thì cháu được hưởng thay).

    - Nếu có tranh chấp khiến tòa án giải quyết và có căn cứ xác định ngôi nhà đó là di sản do ông ngoại bạn để lại thì giá trị ngôi nhà sẽ trừ đi các khoản nợ của ông ngoại bạn (trả lại cho mẹ bạn và bác bạn..) còn lại chia đều cho các thừa kế;

    - Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là 10 năm kể từ ngày ông ngoại bạn qua đời. Do vậy, nếu gia đình bạn không thỏa thuận được thì mẹ bạn có thể khởi kiện yêu cầu chia thừa kế và đòi lại số tiền mà ông bạn đã vay để mua nhà trước đây.

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 04:02:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Nếu giấy phép xây dựng của chủ nhà xây 3 căn mà chủ nhà lại xây thêm 4 căn không có giấy phép (xây dựng sai phép) thì các căn nhà xây không có trong giấy phép có thể bị cưỡng chế tháo dỡ.  Bạn cần xem lại căn nhà mà bạn định mua nằm trong số 3 căn có giấy phép hay trong số 4 căn xây không phép;

    - Theo quy định của pháp luật thì nhà ở phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở (Điều 91 Luật nhà ở 2005) thì mới được phép tham gia giao dịch. Ngôi nhà như bạn nói chưa có GCN QSH nhà ở nên không thể thực hiện được việc mua bán nhà một cách hợp pháp;

    - Đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì diện tích đất chuyển nhượng phải đảm bảo diện tích tối thiếu, đảm báo về kích thước, chỉ giới xây dựng thì mới được phép tách thửa...

    - Ủy quyền không phải là một hình thức mua bán, chuyển nhượng, không phải là hình thức để chuyển quyền sở hữu tài sản. Sau khi hợp đồng ủy quyền được ký kết thì người đứng tên trên GCN QSD đất vẫn còn đầy đủ quyền của chủ sở hữu: Có thể đơn phương chấm dứt ủy quyền, có quyền quản lý, sử dụng định đoạt tài sản..  Hơn nữa, theo quy định tại ĐIều 91 luật nhà ở thì có GCN QSH nhà ở thì mới được thực hiện việc ủy quyền quản lý, sử dụng tài sản. Trường hợp bạn nêu nhà đất chưa có GCN QSH nhà ở nên việc ủy quyền là không tuân thủ quy định pháp luật.

    Bạn tham gia giao dịch như vậy sẽ có nguy cơ gặp rất nhiều rủi ro... bạn cần cân nhắc để tìm giải pháp tốt nhất cho mình.

  • Xem thêm     

    07/09/2013, 12:24:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc ghi chú tỷ lệ bản đồ 1/2000 theo bản đồ quy hoạch năm 2005 chỉ là trích dẫn căn cứ pháp lý để vẽ sơ đồ thừa đất theo GCN QSD đất. Về nguyên tắc được công nhận quyền sử dụng đất thời điểm bào sẽ căn cứ vào quy hoạch thời điểm đó.

    Nếu gia đình bạn không đồng ý với nội dung ghi trong GCN QSD đất thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    06/09/2013, 04:52:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!


    Luật đất đai quy định về điều kiện cấp GCN QSD đất như sau:

    "Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.".

             Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn được quy định tại điểm đ, khoản 1 và khoản 2, Điều 50 Luật đất đai nên gia đình bạn sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất. Gia đình bạn chỉ phải nộp tiền lệ phí trước bạ là 0,5 % giá trị quyền sử dụng đất (trừ trường hợp gia đình bạn cũng được miễn lệ phí trước bạ theo quy định pháp luật./.

     

  • Xem thêm     

    06/09/2013, 01:50:56 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!


    Điều 50 luật đất đai quy định:

    " Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấpcó một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:...".

    Điều 136 Luật đất đai quy định:

    "Điều 136. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

    Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:

     

    1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;

     

    2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:

     

    a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;

     

    b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng."

    Như vậy theo quy định của pháp luật thì điều kiện cấp GCN QSD đất bắt buộc phải là "đất không có tranh chấp". Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của gia đình bạn là đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất và chưa được giải quyết. Do vậy, UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chú bạn trong khi đất đang có tranh chấp là không phù hợp với quy định của pháp luật. Gia đình bạn có thể khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự, khởi kiện vụ án hành chính hoặc khiếu nại quyết định cấp GCN QSD đất cho chú bạn đến người có thẩm quyền theo quy định pháp luật để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    06/09/2013, 10:33:16 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu trong dự án đó có dấu hiệu lừa đảo, huy động vốn trái pháp luật thì bạn có thể giử đơn tố cáo tới công an cấp tỉnh, thành phố. Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì bạn có thể gửi đơn khởi kiện tới Tòa án cấp quận huyện nơi có bất động sản hoặc nơi công ty có trụ sở.

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 10:51:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Anh bạn có thể giử đơn khởi kiện tới Tòa án nơi có thửa đất đó để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu anh bạn đã thanh toán đủ tiền, đã xây nhà kiên cố, trồng cây lâu năm... mà bên chuyển nhượng không phản đối, chính quyền không xử phạt thì Tòa án sẽ công nhận hợp đồng và bắt buộc các bên phải thực hiện hợp đồng theo quy định của luật đất đai, bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 10:26:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc của bạn là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu công ty đã có thái độ như vậy thì bạn chỉ còn cách là đưa vụ việc ra pháp luật đết được giải quyết.

    - Nếu việc huy động vốn đó là trái pháp luật thì có thể có dấu hiệu của tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khi đó lãnh đạo của công ty sẽ đối mặt với án hình sự và cơ hội đòi lại tiền của bạn sẽ cao hơn;

    - Nếu hợp đồng đó có hiệu lực pháp luật (việc chuyển nhượng, huy động vốn là hợp pháp...) thì Tòa án sẽ tuyên bản án, bắt buộc công ty phải thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Khi đó quyền lợi của bạn cũng sẽ được đảm bảo theo quy định pháp luật;

    - Bạn lưu ý thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm hại. Nếu hết 2 năm bạn không khởi kiện yêu cầu pháp luật can thiệp thì bạn mất quyền khởi kiện, khi đó bạn phải chấp nhận những rủi ro từ giao dịch đó...

  • Xem thêm     

    05/09/2013, 02:46:42 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Với đất có nguồn gốc sử dụng sau 15/10/1993; đất giao cho doanh nghiệp, tổ chức; đất chuyển mục đích sử dụng đất... thì có thu tiền sử dụng đất khi nhà nước cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    03/09/2013, 10:24:18 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Như vậy thửa đất của gia đình bạn đã có quy hoạch làm thay đổi mục đích sử dụng đất. Nếu UBND thành phố Hà Nội đã có văn bản yêu cầu UBND cấp quận không được thực hiện thủ tục sang tên, tách thửa đối với các thửa đất nằm trong quy hoạch thì gia đình bạn mới không thực hiện được thủ tục cách thửa. Nếu UBND thành phố Hà Nội chưa có văn bản ngăn chặn thì bố mẹ bạn có thể ký hợp đồng tặng cho với hai anh em bạn để thực hiện thủ tục tặng cho, tách thửa đất theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    03/09/2013, 10:20:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nhà đất đó có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ai thì người đó có quyền quyết định đoạt thửa đất đó. Nếu ông bác đó đã mất mà không để lại di chúc thì bà bác và các con của bác bố bạn được quyền quyết định đến nhà đất đó.

    2. Nếu bố mẹ bạn có công nuôi dưỡng các bác và có công sức tôn tạo làm tăng giá trị nhà đất thì có thể yêu cầu gia đình  đó bồi hoàn phần quyền lợi của bố mẹ bạn. Nếu vụ việc không thể thương lượng được thì bố mẹ bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, bố mẹ bạn phải có chứng cứ  xác đáng thì Tòa án mới chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

129 Trang «<43444546474849>»