Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    24/10/2011, 12:35:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            1. Khoản 6, Điều 279 BLTTDS quy định: "Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án". Các đương sự không có quyền kháng cáo nhưng có quyền KHIẾU NẠI để đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm (Điều 285) hoặc Tái thẩm (Điều 307) kháng nghị. Cụ thể, điểm p, khoản 2, Điều 58, BLTTDS quy định: Đương sự có quyền "Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật".
          Tuy nhiên, Bản án đó có được Chánh án TAND  hoặc VT VKSND kháng nghị theo thủ tục GĐT hay không là việc khác. Nếu có dấu hiệu theo quy định tại Điều 283 BLTTDS 
    (Kết luận không đúng với chứng cứ, vi phạm nghiêm trọng tố tụng, áp dụng sai pháp luật) thì bản án đó mới được kháng nghị để xem xét lại. Kháng nghị đó có được Hội đồng Giám đốc thẩm, Hội đồng Tái thẩm chấp nhận hay không lại là chuyện khác nữa!
           2. Theo quy định tại Điều 286 BLTTDS thì người kháng nghị có quyền yêu cầu Thi hành án hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật (hoãn khoảng 3 tháng, còn tạm đình chỉ thỉ có thể đến khi có Quyết định giám đốc thẩm). Cơ quan thi hành án có tránh nhiệm chấp hành yêu cầu đó.
  • Xem thêm     

    24/10/2011, 11:50:41 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           1. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì nhiều khả năng gia đình bạn sẽ thắng kiện bởi thỏa thuận giữa mẹ bạn với người mua là "nếu trong 5 ngày còn lại này có khách hàng nào mua thì mẹ tôi cứ việc bán lô đất trên và cho bên Mua xin lại một phần tiền đặt cọc" còn nếu trong thời hạn 5 ngày đó không bán được đất cho bên thứ ba thì các bên vẫn phải thực hiện theo thỏa thuận đặt cọc cũ. Việc bên mua không thực hiện thỏa thuận đặt cọc nên bị mất tiền cọc theo quy định tại khoản 2, Điều 358 BLDS.
            2. Hợp đồng ủy quyền giữa mẹ bạn và bạn có hai nội dung và thực hiện việc đặt cọc và ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng đó chưa hoàn toàn đúng về mặt thủ tục nhưng có thể vẫn không bị vô hiệu toàn bộ bởi các lý do sau: Hợp đồng đã được chứng thực chữ ký (nếu đúng thì phải công chứng hợp đồng), sau đó chủ sở hữu tài sản đã làm việc trực tiếp với bên mua, thỏa thuận thêm các nội dung gia hạn đặt cọc. Do vậy không thể cho là hợp đồng đó vô hiệu.

  • Xem thêm     

    24/10/2011, 12:00:53 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           1. Hình thức và nội dung Di chúc của ba bạn như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật . Nay ba bạn đã qua đời nên Di chúc đó có hiệu lực pháp luật, chị em bạn có quyền hưởng di sản theo nội dung di chúc.
           Nhà đất đó là tài sản chung của ba mẹ bạn (không tính phần xây dựng lại của  chị em bạn). Mẹ bạn chết năm 1994 không để lại di chúc, phần của mẹ bạn (1/2) đến nay đã hết thời hiệu thừa kế, do vậy, phần của mẹ bạn sẽ do bạn và chị bạn tiếp tục quản lý. Phần di sản của ba bạn  (1/2) và phần di sản mà ba bạn hưởng từ mẹ bạn thuộc về chị em bạn theo nội dung di chúc.
            Do vậy, nếu vụ việc của gia đình bạn tranh chấp khiến Tòa án giải quyết thì các anh bạn sẽ  thua kiện và không được chia bất cứ một phần giá trị tài sản nào (phần của mẹ đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, phần của ba đã định đoạt bằng di chúc cho bạn và chị bạn).

            2. Nếu các anh bạn không đồng ý phân chia di sản theo nội dung  đã thỏa thuận thì bạn có quyền yêu cầu UBND phường hòa giải. Nếu hòa giải không thành thì bạn và chị bạn nên khởi kiện yêu cầu tòa án chia thừa kế để được hưởng thừa kế theo nội dung di chúc của ba bạn và được quyền quản lý phần di sản của mẹ bạn do mẹ bạn do đã hết thời hiệu thừa kế.
            3. Giá trị phần diện tích nhà xây dựng lại là tài sản riêng của bạn và chị bạn do đã bỏ tiền riêng ra xây dựng.
           Tóm lại, trong vụ việc trên phần thắng thuộc về chị em bạn, nên nếu các anh không đồng ý phân chia thừa kế theo thỏa thuận thì bạn và chị bạn nên khởi kiện về thừa kế để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình theo di chúc và theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 11:39:26 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Hành vi của người mượn xe đi cầm cố có dấu hiệu của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 BLHS hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS. Hành vi của người mang xe đi cầm cố thể hiện thái độ bất chấp pháp luật còn thái độ của gia đình như vậy là thiếu trách nhiệm với con cái.
               Do vậy, nếu gia đình họ và người đó kiên quyết không trả xe hoặc bồi thường thiệt hại thì chủ xe có thể báo công an để lấy lại xe và xử lý người đó trước pháp luật. Trong trường hợp này, người nhận cầm cố xe cũng có thể  phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 250 BLHS.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 10:10:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
        1. Theo thông tin mà bạn cung cấp thì không có căn cứ để xác định Tòa án đã hoặc đang giải quyết vụ án đó bởi Điều 174 BLTTDS quy định:

    Điều 174. Thông báo về việc thụ lý vụ án

    1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.

    2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:

    a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;

    b) Tên, địa chỉ Toà án đã thụ lý vụ án;

    c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;

    d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;

    đ) Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;

    e) Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có;

    g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu.".

    Như vậy, nếu gia đình bạn không nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án thì chứng tỏ chưa có vụ án nào cả. Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân nào cho rằng vụ việc đang được Tòa án giải quyết hoặc đã được Tòa án giải quyết thì họ phải có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc đó.

         2. Điều 135 Luật đất đai quy định tranh chấp đất đai mà không thể tự giải quyết được thì có đơn yêu cầu UBND xã hòa giải. UBND xã phối hợp với MTTQ để hòa giải. Nếu hòa giải không thành thì các đương sự có quyền đề nghị UBND hoặc Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai. Nếu các đương sự không có đơn yêu cầu thì các cơ quan đó cũng không có nghĩa vụ phải giải quyết. Trong vụ việc này có thể gia đình bà Thu có đơn kiện nhưng không đủ điều kiện để Tòa án thụ lý nên Tòa án đã không thông báo thụ lý cho gia đình bạn và không giải quyết.
         3. Khoản 3, Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại. Do vậy, từ năm 2009 đến nay nếu gia đình bà Thu không có đơn khởi kiện thì nay là mất quyền khởi kiện vụ án tranh chấp đó. Đồng thời không thể cho rằng thửa đất của gia đình bạn đang có tranh chấp.
         4. Pháp luật quy định việc tách thửa chỉ thực hiện thông qua Phòng công chứng và UBDN cấp huyện. UBND cấp xã không tham gia vào bất cứ quy trình nào của việc tách sổ. Do vậy, bạn chỉ cần thuê công ty đo đạc đo vẽ thửa đất, công chứng hợp đồng rồi nộp hồ sơ vào Phòng TN&MT để tách thửa là xong. Bạn có thể tham khảo quy định của Nghị định181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai như sau:

    Điều 145.          Trình tự, thủ tục tách thửa hoặc hợp thửa

    1. Hồ sơ tách thửa hoặc hợp thửa gồm có:

    a) Đơn xin tách thửa hoặc hợp thửa của người sử dụng đất đối với trường hợp người sử dụng đất có nhu cầu khi thực hiện quyền đối với một phần thửa đất hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thu hồi một phần thửa đất hoặc một trong các loại văn bản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 của Nghị định này khi thực hiện đối với một phần thửa đất;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).

    2. Việc tách thửa, hợp thửa theo nhu cầu của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

    a) Người có nhu cầu xin tách thửa hoặc hợp thửa lập một (01) bộ hồ sơ nộp tại Sở Tài nguyên và Môi trường đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; nộp tại Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với hộ gia đình, cá nhân; 

    b) Trong thời hạn không quá bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm gửi hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để chuẩn bị hồ sơ địa chính;

    c) Trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp;

    d) Trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai, trình Ủy ban nhân dân cùng cấp xem xét và ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới; Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai và ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới trong trường hợp được uỷ quyền hoặc trình Ủy ban nhân dân cùng cấp xem xét và ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới trong trường hợp không được uỷ quyền;

    đ) Trong thời hạn không quá bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xem xét, ký và gửi cho cơ quan tài nguyên và môi trường trực thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất mới, trừ trường hợp Sở Tài nguyên và Môi trường được uỷ quyền;

    e) Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày giấy chứng nhận được ký, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm trao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất mới cho người sử dụng đất; gửi bản lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được ký, bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thu hồi hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai đã thu hồi cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc; gửi thông báo biến động về sử dụng đất cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để chỉnh lý hồ sơ địa chính gốc.



     

    "
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 09:43:38 CH | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                  Yêu cầu rút lại căn nhà và góp vốn bằng tiền mà không được B và C chấp nhận thì A không thể thực hiện được. Bởi thông tin mà bạn đưa ra thì " thủ tục góp vốn được thực hiện đúng quy định của Luật doanh nghiệp" : Đã sang tên ngôi nhà đứng tên doanh nghiệp và A được cấp Giấy chứng nhận phần vốn góp (?). Đến nay, ngôi nhà đó đã thành tài sản của Doanh nghiệp và không còn là tài sản của A nữa.
                 
    Quyền sở hữu tài sản đã chuyển từ A sang DN kể từ thời điểm hoàn thành nghĩa vụ góp vốn. Do vậy, quyền định đoạt ngôi nhà thuộc về Doanh nghiệp, A không có quyền thay đổi vốn góp. Sau  này giá trị tài sản tăng hay giảm đi thì  lợi ích hoặc rủi ro đó đều thuộc về doanh nghiệp (giả sử tài sản góp vốn có bị mất giá thì DN cũng phải chịu chứ không thể bắt thành viên góp thêm tiền). Tóm lại yêu cầu thay đổi tài sản góp vốn của A chỉ có thể thực hiện được nếu được Hội đồng thành viên đồng ý và phần giá trị tài sản tăng lên trở thành lợi nhuận của DN.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 05:06:59 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, cảm ơn bạn! Chúc bạn cùng gia đình mạnh khỏe.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 05:04:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vấn đề của bạn là nội dung đang gây tranh cãi và thực tiễn, Tòa án có hai quan điểm giải quyết khác nhau:

    -                     Quan điểm thứ nhất: Căn cứ vào BLLĐ và thỏa thuận trong Hợp đồng lao động, Thỏa ước lao động tập thể để bảo vệ quyền lợi cho công ty nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn;

    -                     Quan điểm thứ 2: là viện dẫn Nghị định 44 và Thông tư số 21 năm 2003 để cho phép bạn chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường. Coi đây là quy định hướng dẫn luật chứ không trái luật.
            Thông thường Tòa án áp dụng quan điểm 1 để giải quyết nếu thời gian thỏa thuận làm việc sau đào tạo khoảng 3, 4 năm trở lại, đồng thời Công ty vẫn tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng lao động và chế độ đối với người đã được đào tạo tốt hơn trước và tốt hơn những lao động không được đào tạo.

    Nếu thỏa thuận thời gian làm việc sau hợp đồng khoảng 5, 6 năm trở lên đồng thời chế độ đãi ngộ của Công ty sau khi đào tạo không hợp lý gây thiệt hại cho người lao động (chế độ và thu nhập không hơn lao động không được đào tạo) thì Tòa án sẽ áp dụng quan điểm thứ 2 để cho phép người lao động chấm dứt hợp đồng lao động.
              Theo tôi thì đó cũng là một cách giải quyết linh động và hợp lý bởi nếu cứ áp dụng một số quy định của Nghị định 44 và Thông tư 21 trong mọi trường hợp thì NSDLĐ sẽ KHÔNG DÁM cho người lao động đi đào tạo nữa. Bởi chi phí đào tạo không phải là ít, nếu sau khi được đào tạo NSDLĐ chỉ cần thông báo trước 30 hoặc 45 ngày là có quyền chấm dứt hợp đồng, rũ bỏ trách nhiệm sau khi đào tạo và không phải bồi thường chi phí đào tạo thì sẽ không hợp lý và doanh nghiệp sẽ thiệt hại rất lớn  NLĐ cũng sẽ nghỉ việc hàng loạt mà không tuân theo cam kết về thời gian làm việc  sau đào tạo ghi trong hợp đồng lao động…

    Do vậy, bạn nên cân nhắc trước khi quyết định bởi với tình huống của bạn thì mọi việc đều có thể xảy ra.

  • Xem thêm     

    23/10/2011, 04:10:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng cảm ơn bạn!
    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:
           1. Giấy chứng nhận QSD đất tạm thời đó cũng có giá trị pháp lý và chứng minh là tài sản có trước hôn nhân nên được xác định là tài sản riêng. Khoản 1, Điều 27 LHN&GĐ quy định:

    "Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận."
           Vậy nên nếu anh bạn chưa có văn bản thỏa thuận nào là nhập khối tài sản riêng đó thành tài sản chung thì đến nay nhà đất vẫn là tài sản riêng của anh trai bạn (trừ phần xây dựng, sửa chữa thêm trong thời kỳ hôn nhân- nếu có).
           2. Nếu chị dâu bạn không tranh chấp gì thì mới sang tên cho bố mẹ bạn. Nếu có tranh chấp thì sẽ không thể sang tên cho đến khi có bản án, quyết định của Tòa án xác định là tài sản riêng của anh trai bạn. Nếu chị bạn không đồng ý ký hợp đồng để sang tên cho bố mẹ bạn thì công chứng viên sẽ không công chứng hợp đồng (bởi tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung nên có thể có phần sở hữu chung phát sinh trong khối tài sản đó: Tu sửa, xây dựng, sửa chữa...). Do vậy, hãy chờ sau khi ly hôn, anh trai bạn hãy định đoạt nhà đất đó để tránh rắc rối cho bố mẹ!

  • Xem thêm     

    23/10/2011, 03:56:06 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


               Luật sư nhất trí ý kiến của bạn Hoangvhung!
               Anh trai bạn cần cung cấp chứng cứ để chứng minh là nếu Tòa án giao con cho anh bạn trực tiếp nuôi thì cháu bé sẽ phát triển tốt hơn về cả tinh thần và vật chất, thuận lợi học hành...
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 03:51:37 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Bạn cưới vợ từ năm 1996 nhưng chưa đăng ký kết hôn. Do vậy, nếu bạn có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ thụ lý và căn cứ vào Nghị quyết35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn luật hôn nhân và gia đình và Thông tư liên tịch số01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP để ra bản án không công nhận quan hệ của bạn là vợ chồng và áp dụng khoản 2 và khoản 3, Điều 17 LHN&GĐ để giải quyết yêu cầu nuôi con và tài sản.

    Điều 17 LHN&GĐ quy định như sau:

    "2. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.

    3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.".

    2. Chia con: Với con trên từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải hỏi ý kiến của con. Tuy nhiên, ý kiến của con chỉ là thủ tục tham khảo chứ không có tính chất quyết định đến việc Tòa án giao con cho ai nuôi. Bạn có thể chứng minh nhân cách, lối sống của vợ bạn không tốt như bạn trình bày ở trên để yêu cầu được trực tiếp nuôi con.

    3. Đối với tài sản: Theo nội dung bạn trình bày thì khối tài sản đó có nguồn gốc là của bạn. Công sức duy trì, phát triển khối tài sản đó cũng do bạn là chính nên Tòa án có thể chia đôi và cho bạn được phần hơn.

           Rất khó để chứng minh căn nhà mua năm 2008 là tài sản riêng của bạn bởi số tiền mua đất, xây nhà là do thu nhập của bạn có được khi chung sống (mua bán mấy lô đất và tích lũy 14 năm nay) chứ không hoàn toàn là tài sản riêng của bạn trước hôn nhân.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 11:24:58 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bac!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bác như sau:
                1. Theo thôn tin mà bác nêu ở trên thì căn nhà đó đứng tên hai vợ chồng bác chứ không phải là đại diện hộ gia đình đứng tên nên tài sản đó là của vợ chồng bác, vợ chồng bác có toàn quyền định đoạt, không liên quan gì đến hộ khẩu của các con. Khi thực hiện giao dịch, chỉ cần hai vợ chồng bác ký hợp đồng là đủ (Công chứng viên  và cán bộ TN&MT cũng chỉ căn cứ vào GCN QSDĐ&QSHN và hộ khẩu, đăng ký kết hôn của vợ chồng bác để thực hiện thủ tục, họ không quan tâm đến trong nhà đó còn có hộ khẩu nào khác hay không).
               2. Tuy nhiên, các con của bác vẫn có thể cản trở vợ chồng bác trong việc thực hiện giao dịch đối với căn nhà đó. Họ có thể viện lý do là họ có công sức trong việc sửa chữa, xây dựng ngôi nhà. Nếu họ có đơn tranh chấp ngôi nhà đó thì vợ chồng bác chưa thể thực hiện giao dịch được. Nếu sự việc xảy ra như vậy thì bác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật xác định ngôi nhà đó là tài sản của hai bác thì lúc đó hai bác có toàn quyền định đoạt , các con của bác không thể cản trở được nữa.
               3. Bác cũng có thể chọn giải pháp là lập di chúc để chia nhà đất cho các con sau khi vợ chồng bác qua đời. Trong di chúc bác có thể định đoạt khác với diện tích nhà đất thực tế mà các con bác đang sử dụng hoặc có thể giao cho 1 người sử dụng nhà và có nhiệm vụ thanh toán giá trị cho các con khác. Nói chung, định đoạt bằng di chúc là các định đoạt rất đa dạng, linh hoạt nên hai bác nên định đoạt tài sản đó bằng di chúc để tránh xáo trộn cuộc sống của các con hiện nay.
              Chúc bác thành công!
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 10:46:33 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            1. Đất thương mại mà bạn nói là loại ĐẤT LÀM MẶT BẰNG XÂY DỰNG CƠ SỞ SẢN XUẤT, KINH DOANH (thuộc nhóm đất phi nông nghiệp) được quy định  cụ thể tại Điều 93, Luật đất đai năm 2003.
            2. Với loại đất thương mại thì bạn không thể xin phép xây dựng nhà ở được trừ trường hợp bạn được chuyển mục đích sử dụng đất.
            3. Nếu bạn sử dụng đất không đúng mục đích, không hiệu quả thì có thể bị thu hồi đất theo quy định tại khoản 3, Điều 38 Luật đất đai.
            4. Theo thông tin bạn đưa ra thì bạn đã "làm xong thủ tục mua đất"? Nghĩa là bạn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất? Trong trường hợp thủ tục mua bán chưa hoàn tất (chưa được cấp GCN) thì bạn có thể thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng, nếu không được thì bạn có thể yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đó và lấy lại số tiền đã giao.
            Tuy nhiên bạn cũng cần xem lại nội dung thỏa thuận của các bên thế nào để xác định lỗi và thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng. Trong trường hợp bạn "đi tiếp" thì bạn phải sử dụng đất đúng mục đích nếu không sẽ gặp rủi ro pháp lý như tôi nói ở trên. 
            Nếu thủ tục mua bán đã hoàn tất (bạn đã trả hết tiền, đã nhận đất và được cấp GCN) thì bạn không thể làm gì được nữa.
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 08:20:32 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
             1. Chị bạn cần có đơn yêu cầu Tòa án nơi anh S cư trú xác định quan hệ cha con giữa cháu bé đó với anh S theo quy định tại khoản 4, Điều 27 BLTTDS;
             2. Nghị quyết02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Tòa án nhân dân tối cao quy định: "Theo quy định tại khoản 2 Điều 63 và Điều 64, khi có người yêu cầu Toà án xác định một người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ; do đó về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien. Người có yêu cầu giám định gien phải nộp lệ phí giám định gien."
             Do vậy, trước khi yêu cầu Tòa án cho công nhận quan hệ cha con thì chị bạn có thể tiến hành thủ tục giám định AND để làm căn cứ cho Tòa án giải quyết. Nếu anh S gây khó khăn hoặc không thể tiến hành thủ tục giám định ADN trước khi có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì trong quá trình Tòa án giải quyết, chị bạn phải có đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định ADN. Kết quả giám định ADN sẽ là căn cứ để Tòa án chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của chị bạn.
             3. Nếu kết quả giám định cho thấy anh S chính là cha của cháu bé thì chị gái bạn có quyền yêu cầu anh S phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu bé đến khi thành niên (18 tuổi). "Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
    Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
    b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
    c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng." (Trích Nghị quyết02/2000/NQ-HĐTP).
  • Xem thêm     

    23/10/2011, 07:00:57 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời câu hỏi của bạn như sau:
    1. Đối với tài sản, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định như sau:
               "b. khoản 2 Điều 27 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng".
    Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
    "
               Như vậy, căn nhà đó là của bố mẹ bạn cho riêng anh trai bạn, trong giấy chứng nhận chỉ đứng tên anh trai bạn nhưng tài sản đó có trong thời kỳ hôn nhân nên khi ly hôn nghĩa vụ chứng minh "đó là tài sản riêng" thuộc về anh trai bạn. Nếu anh trai bạn không đưa ra được chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng thì Tòa án sẽ căn cứ vào khoản 3, Điều 27 LHN&GĐ để xác định đó là tài sản chung vợ chồng và chia đôi cho hai bên.
                Những chứng cứ mà anh trai bạn phải xuất trình để chứng minh tài sản riêng là: Hợp đồng tặng cho của bố mẹ bạn cho anh trai bạn; Bộ hồ sơ xin cấp GCN QSDĐ của anh trai bạn; Giấy chứng nhận QSD Đất; Ý kiến trình bày của bố mẹ bạn và những chứng cứ khác (nếu có). Anh trai bạn cần xuất trình các chứng cứ trên để Tòa án xem xét.
                Đối với phần công trình phụ, xây dựng, sửa chữa thêm sẽ là tài sản chung trong khối tài sản riêng. Khi giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ định giá toàn bộ nhà đất, trong đó có cả phần diện tích mà anh chị bạn xây dựng, sửa chữa thêm. Giá trị phần xây dựng, sửa chữa thêm sẽ xác định là tài sản chung vợ chồng. Nếu anh trai bạn đã chứng minh được ngôi nhà đó là tài sản riêng thì anh trai bạn được sử dụng ngôi nhà đó và có trách nhiệm thanh toán cho chị dâu bạn 1/2 giá trị phần xây dựng, sửa chữa thêm trong thời gian anh chị bạn sử dụng nhà.
    2. Đối với con chung:
    Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc giải quyết việc tranh chấp về con khi ly hôn như sau: "Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai.
    Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác.
    "
              Như vậy, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là điều kiện cho sự phát triển thể chất, tinh thần và đảm bảo việc học hành Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi. Nếu anh trai bạn chứng minh được là chị dâu bạn "kém nhân cách", không có chỗ ở... thì nhiều khả năng anh trai bạn sẽ được trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, giải quyết vụ việc thế nào thế nào, Tòa án phải NHẬN THẤY căn cứ vào các chứng cứ của hai bên cung cấp, rồi Tòa án XÉT THẤY giao con cho ai sẽ tốt cho con hơn thì Tòa án sẽ QUYẾT ĐỊNH tại bản án.
  • Xem thêm     

    22/10/2011, 10:03:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn Letridao!
    1. Thủ tục tiếp theo là Tòa án cấp phúc thẩm sẽ giải quyết vụ án đối với phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Thủ tục tương tự như giai đoạn sơ thẩm.
    2. Tòa án sơ thẩm (Tòa án Hóc Môn) có trách nhiệm gửi cho bạn thông báo kháng cáo và nội dung kháng cáo và chuyển hồ sơ lên tòa án cấp phúc thẩm (TAND thành phố HCM);
    3, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ yêu cầu bạn trình bày nội dung ý kiến của mình đối với kháng cáo của bị đơn;
    4. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ triệu tập các bên đến để hòa giải đối chất (Lưu ý với TAND tối cao xét xử phúc thẩm thì "nhanh lắm", thực tế ít khi tổ chức hòa giải, đối chất),
    5, Bạn cần chuẩn bị, bổ sung thêm các tài liệu, chứng cứ, lập luận để bác bỏ kháng cáo của bị đơn.
    6, Thời gian chuẩn bị xét xử ở cấp phúc thẩm thông thường kéo dài khoảng 3, 4 tháng. Phiên tòa sơ thẩm giải quyết những nội dung trong phạm vi kháng cáo của bị đơn và kháng nghị của VKS (nếu có).
    7. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm có thể tuyên: Hủy án sơ thẩm và giao cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung; Sửa án sơ thẩm hoặc Giữ nguyên án sơ thẩm đã tuyên. Án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay, các đương sự không có quyền kháng cáo.
  • Xem thêm     

    22/10/2011, 09:36:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
    1. Về trình tự thủ tục và thời gian thực hiện việc chuyển nhượng, bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Nghị định 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Chính phủ:

    Điều 148.          Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    1. Bên nhận chuyển nhượng nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

    a) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).

    2. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện như sau:

    a) Trong thời hạn không quá bốn (04) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính; chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận;

    b) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thông báo cho bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính;

    c) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    2. Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì Bên chuyển nhượng nộp tiền thuế thu nhập cá nhân là 2% giá trị chuyển nhượng; Bên nhận chuyển nhượng có trách nhiệm nộp phí trước bạ là 0,5% giá trị chuyển nhượng.
    3. Nếu không có vướng mắc gì phát sinh thì việc chuyển mục đích sử dụng đất có thể thực hiện trong thời gian
    khoảng 30 ngày làm việc.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    22/10/2011, 09:21:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Tôi rất hiểu tâm trạng của bạn lúc này! Thực tế
    có nhiều trại giam việc quản lý, giáo dục phạm nhân rất tốt, nhiều cán bộ quản giáo rất từ tâm khiến phạm nhân phải nể phục và yêu mến. Tuy nhiên cũng có một số trại tạm giam và trại giam còn nhiều chuyện khác đáng trách hơn là bữa cơm tù... nhưng không dễ xử lý những chuyện như thế. Hi vọng trong tương lai những quy định về quản lý trại giam sẽ chặt chẽ, cụ thể hơn và phạm nhân sẽ được đối xử công bằng, bình đẳng hơn.
  • Xem thêm     

    22/10/2011, 10:36:48 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Luật sư nhât trí với ý kiến của bạn!
  • Xem thêm     

    21/10/2011, 09:50:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, cảm ơn ban!