Tư Vấn Của Luật Sư: Linh Huỳnh - linh_ht

  • Xem thêm     

    02/12/2022, 09:58:52 CH | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Việc công ty bạn đã thực hiện (xuất hóa đơn cho Công ty A) là hành động đúng theo quy định tại điểm d khoản 7 điều 5 của Thông tư 219/2013/TT-BTC như trích dẫn bên dưới.

    Cơ sở kinh doanh không phải kê khai, nộp thuế trong các trường hợp sau:

    a) Góp vốn bằng tài sản để thành lập doanh nghiệp. Tài sản góp vốn vào doanh nghiệp phải có: biên bản góp vốn sản xuất kinh doanh, hợp đồng liên doanh, liên kết; biên bản định giá tài sản của Hội đồng giao nhận vốn góp của các bên góp vốn (hoặc văn bản định giá của tổ chức có chức năng định giá theo quy định của pháp luật), kèm theo bộ hồ sơ về nguồn gốc tài sản.

    b) Điều chuyển tài sản giữa các đơn vị hạch toán phụ thuộc trong doanh nghiệp; điều chuyển tài sản khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Tài sản điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong cơ sở kinh doanh; tài sản điều chuyển khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì cơ sở kinh doanh có tài sản điều chuyển phải có lệnh điều chuyển tài sản, kèm theo bộ hồ sơ nguồn gốc tài sản và không phải xuất hóa đơn.

    Trường hợp tài sản điều chuyển giữa các đơn vị hạch toán độc lập hoặc giữa các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ trong cùng một cơ sở kinh doanh thì cơ sở kinh doanh có tài sản điều chuyển phải xuất hóa đơn GTGT và kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 6 Điều này.

    c) Thu đòi người thứ 3 của hoạt động bảo hiểm.

    d) Các khoản thu hộ không liên quan đến việc bán hàng hóa, dịch vụ của cơ sở kinh doanh.

    đ) Doanh thu hàng hóa, dịch vụ nhận bán đại lý và doanh thu hoa hồng được hưởng từ hoạt động đại lý bán đúng giá quy định của bên giao đại lý hưởng hoa hồng của dịch vụ: bưu chính, viễn thông, bán vé xổ số, vé máy bay, ô tô, tàu hoả, tàu thủy; đại lý vận tải quốc tế; đại lý của các dịch vụ ngành hàng không, hàng hải mà được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%; đại lý bán bảo hiểm.

    e) Doanh thu hàng hóa, dịch vụ và doanh thu hoa hồng đại lý được hưởng từ hoạt động đại lý bán hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT.

    Theo quan điểm của mình, bạn nên trao đổi lại với phía Công ty B về phương án giải quyết thích hợp hơn. Trên thực tế, nếu thực hiện theo đề xuất của Công ty B thì xét về mức độ rủi ro thì Công ty B có khả năng gánh chịu hậu quả nặng nề nhất (bị ghi nhận doanh thu từ Công ty A trong khi chi phí thanh toán cho công ty của bạn bị loại) và tiếp đến là Công ty A (chi phí thanh toán cho Công ty B bị loại).
  • Xem thêm     

    02/12/2022, 09:37:22 CH | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Bạn lưu ý cần thực hiện thủ tục xin cấp phép hoạt động cơ sở khám, chữa bệnh.

    Việc thông báo lập địa điểm kinh doanh trong trường hợp của bạn là không cần thiết, và trên thực tế nếu muốn lập địa điểm kinh doanh tại trụ sở chính cũng không thể thực hiện được, theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 của Nghị định 01/2021/NĐ-CP như trích dẫn bên dưới.

    2. Thông báo lập địa điểm kinh doanh

    a) Doanh nghiệp có thể lập địa điểm kinh doanh tại địa chỉ khác nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc đặt chi nhánh; 

    b) Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định lập địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp gửi thông báo lập địa điểm kinh doanh đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi đặt địa điểm kinh doanh;

    c) Thông báo lập địa điểm kinh doanh do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký trong trường hợp địa điểm kinh doanh trực thuộc doanh nghiệp hoặc do người đứng đầu chi nhánh ký trong trường hợp địa điểm kinh doanh trực thuộc chi nhánh.

  • Xem thêm     

    20/01/2022, 04:15:29 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Theo mình hiểu thắc mắc của bạn nhìn chung xoay quanh yếu tố giá trị hợp đồng.

    Trước hết cần làm rõ rằng, hợp đồng thầu chính (được ký giữa chủ đầu tư và công ty bạn) và hợp đồng thầu phụ (được ký giữa công ty bạn và nhà thầu phụ) về nguyên tắc là hai hợp đồng độc lập nhau. Có thể có những thông tin, điều khoản được tham chiếu, viện dẫn qua lại giữa hai hợp đồng này, nhưng giá trị của một hợp đồng không mặc nhiên phụ thuộc vào hợp đồng còn lại.

    Do đó, việc có sự sai khác đơn giá nhân công như bạn đề cập, về bản chất, không nhất thiết cần phải điều chỉnh, vì đơn giá nhân công tại hợp đồng thầu chính cấu thành một phần giá trị hợp đồng thầu chính, và đơn giá nhân công tại hợp đồng thầu phụ cấu thành một phần giá trị hợp đồng thầu phụ, là hai thứ không liên quan đến nhau. Trong trường hợp cần điều chỉnh đơn giá nhân công tại hợp đồng thầu phụ để thuận tiện cho việc đánh giá thanh toán, phát sinh sau này, có thể thực hiện bằng cách xác lập phụ lục hợp đồng.

    Đối với sự thiếu sót về thuế suất GTGT áp dụng cho hợp đồng thầu phụ, cần làm rõ giá trị của hợp đồng thầu phụ là giá trị trọn gói, trước thuế hay sau thuế để có hướng xử lý phù hợp. Nếu hợp đồng được ký với giá trị trước thuế thì không cần điều chỉnh, vì thuế suất hiện hành sẽ mặc nhiên được áp dụng khi nghiệm thu, thanh toán khối lượng công việc thực hiện. 

  • Xem thêm     

    25/12/2021, 11:49:14 SA | Trong chuyên mục Lao động

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Trước tiên, mình xin làm rõ một chút về viện dẫn luật của bạn (BLLĐ 2015?), theo mình hiểu ở đây đang đề cập đến Bộ luật dân sự 2015

    Điều 147 của Bộ luật dân sự 2015 là một cấu phần của Chương X quy định về thời hạn và thời hiệu. Như đã nêu ở bài trước, Điều 145.1 của Bộ luật dân sự 2015 quy định vế áp dụng cách tính thời hạn đã quy định rằng "cách tính thời hạn được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác".

    Nói cách khác, cách tính thời hạn tại Chương X của Bộ luật dân sự 2015, bao gồm cách tính thời điểm bắt đầu thời hạn tại Điều 147.2 như bạn viện dẫn, chỉ được áp dụng nếu các bên không có thỏa thuận khác về vấn đề này.

    Trong khi đó, theo thông tin mà bạn cung cấp, thời hạn của dịch vụ bảo vệ được các bên xác định là 1 tháng từ ngày 1/6 đến 30/6, tức đang quy ước về khoảng thời gian tròn một tháng dương lịch (tháng 6). Như vậy, việc sử dụng cách tính thời điểm bắt đầu thời hạn tại Điều 147.2 của Bộ luật dân sự 2015 để diễn giải là không phù hợp.

  • Xem thêm     

    21/12/2021, 05:50:32 CH | Trong chuyên mục Lao động

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Đối với vấn đề thứ nhất mà bạn đang quan tâm, có một số điểm cần lưu ý như sau:

    1. Thông tư số 141/2011/TT-BTC được viện dẫn (mà sau đó đã được sửa đổi bởi Thông tư số 57/2014/TT-BTC là văn bản dưới luật, được ban hành trên cơ sở căn cứ Bộ luật lao động 1994 và 2012. Theo quy định tại Bộ luật lao động 1994 và 2012 thì trong trường hợp người lao động do thôi việc hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm, thì được trả lương những ngày chưa nghỉ.

    2. Tuy nhiên, ở Bộ luật lao động 2019 hiện hành thì phần "lý do khác" trong nội dung quy định về nghỉ hàng năm đã bị xóa bỏ. Như vậy, có thể hiểu theo quy định của Bộ luật lao động 2019 thì trừ khi các bên có thỏa thuận khác, việc chi trả lương cho những ngày nghỉ hàng năm chưa sử dụng chỉ áp dụng trong trường hợp thôi việc, mất việc.

    3. Theo quy định của Luật ban hành văn bản pháp luật thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

    Từ những cơ sở trên, về nguyên tắc, quy định tại thông tư số 141/2011/TT-BTC về trường hợp được thanh toán tiền bồi dưỡng do yêu cầu công việc, cơ quan, đơn vị không bố trí được thời gian cho cán bộ, công chức nghỉ phép không còn giá trị áp dụng. 

    Liên quan đến Điều 220.2 của Bộ luật lao động 2019, quy định chỉ đề cập đến "hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, các thỏa thuận khác". Như vậy, việc thanh toán tiền bồi dưỡng do yêu cầu công việc, cơ quan, đơn vị không bố trí được thời gian cho cán bộ, công chức nghỉ phép, nếu có, phải được ghi nhận tại hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, các thỏa thuận khác đã giao kết giữa các bên, không thể tham chiếu đến thông tư số 141/2011/TT-BTC.

    Ngoài ra, thông tin để bạn tham khảo thêm là Bộ Tài chính đã tiến hành dự thảo và lấy ý kiến thông tư bãi bỏ Thông tư số 141/2011/TT-BTC và Thông tư số 57/2014/TT-BTC tại Chi tiết góp ý dự thảo (mof.gov.vn).

  • Xem thêm     

    10/12/2021, 07:36:12 CH | Trong chuyên mục Lao động

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn, 

    Theo quy định của Điều 145.1 của Bộ luật Dân sự 2015 thì "cách tính thời hạn được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác". 

    Trong trường hợp này, có thể thấy các bên đã có thoả thuận khác trong việc xác định thời hạn, theo đó quy ước thời hạn là 1 tháng bắt đầu từ ngày 01/06 đến ngày 30/06 (tức tròn 1 tháng).

     
  • Xem thêm     

    04/12/2021, 10:16:52 SA | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Trên phương diện pháp luật thì hành vi bán phá giá sản phẩm có thể được xác định là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, và bị xử phạt hành chính, nếu rơi vào trường hợp theo quy định tại Điều 45.6 của Luật Cạnh tranh 2018: "Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó".

    Hiện nay, Luật Cạnh tranh 2018 chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi nêu trên, tuy nhiên theo quy định tại Điều 23.1 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2004 (đã hết hiệu lực, chỉ để tham khảo) thì giá thành toàn bộ bao gồm chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ hoặc giá mua hàng hóa để bán lại và chi phí lưu thông hàng hóa.

    Tuy nhiên, trong trường hợp như bạn trình bày thì khó có khả năng vận dụng các quy định trên để thu lại kết quả nhanh chóng và hiệu quả. 

    Theo quan điểm của tôi, bên cạnh việc tiếp tục yêu cầu đơn vị vận hành sàn thương mại điện tử (như Shopee) thực hiện các biện pháp theo quy chế hoạt động của sàn, bạn có thể nghiên cứu hướng xây dựng và thỏa thuận với các đại lý về chính sách bán hàng (ví dụ như giá sàn) và các biện pháp chế tài trong trường hợp vi phạm.

  • Xem thêm     

    01/12/2021, 12:32:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Theo thông tin bạn trình bày thì vụ việc không chỉ ảnh hưởng đến riêng cá nhân chú của bạn, mà còn với cả nhiều hộ gia đình đã sinh sống ổn định tại khu đất.

    Về nguyên tắc thì việc chú của bạn nhận chuyển nhượng bằng hình thức ký giấy tay là sai về hình thức. Tuy nhiên chú của bạn (cùng những hộ khác) là người nhận chuyển nhượng thực tế, giao dịch đã xác lập tại thời điểm trước giao dịch của chủ nhà với bên cho vay rất lâu.

    Như vậy, theo quan điểm cá nhân của mình thì vẫn có khả năng tháo gỡ để tránh mất nhà, hoặc ít nhất là hạn chế tối đa thiệt hại phải gánh chịu.

    Gia đình nên tập hợp hồ sơ cùng các hộ lân cận và liên hệ với văn phòng luật sư uy tín để trao đổi và được tư vấn từng bước xử lý vụ việc.

  • Xem thêm     

    29/11/2021, 10:16:33 CH | Trong chuyên mục Lao động

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Về nguyên tắc thì cách tính của công ty không sai, vì tiền lương làm thêm giờ được tính trên tiền lương giờ thực trả.

    Mặc dù có cách gọi tên như vậy, nhưng tiền lương giờ thực trả lại có nhiều ngoại lệ không được tính vào như thưởng sản xuất kinh doanh, tiền thưởng sáng kiến, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ, hỗ trợ khi có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.

    Điều này dẫn đến các loại phụ cấp, thưởng mà bạn liệt kê không được bao gồm trong tiền lương giờ thực trả, và do đó không được sử dụng làm cơ sở để tính tiền lương làm thêm giờ.

    Bạn có thể tham khảo Điều 98 của Bộ luật Lao động 2019 và Điều 55 của Nghị định 145/2020/NĐ-CP để tìm hiểu thêm chi tiết.

  • Xem thêm     

    26/11/2021, 05:15:35 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    linh_ht
    linh_ht

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:24/11/2021
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 180
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 40 lần


    Chào bạn,

    Trong tình huống này có một số vấn đề cần làm rõ như sau:

    1. Việc ngân hàng gửi thông báo từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (đúng hoặc sai) không liên quan và không làm ảnh hưởng đến thời hạn bảo lãnh đã phát hành. Đối tượng của thông báo từ chối này chỉ là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà công ty bạn đã gửi đến ngân hàng trước đó. Nói cách khác, bảo lãnh thanh toán vẫn sẽ tiếp tục có hiệu lực cho đến hết thời hạn ban đầu, và công ty bạn vẫn có quyền gửi một yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khác.

    2. Liên quan đến thông báo từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bạn chưa nêu rõ việc công ty bạn có phát hành công văn rút yêu cầu thực hiện bảo lãnh thanh toán theo nội dung cuộc họp trước đó hay không. Nhìn chung, việc nhận định hành động của ngân hàng trong trường hợp này là đúng hay sai cần đánh giá toàn diện hồ sơ liên quan. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Điều 20 của Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/07/2015 của Ngân hàng Nhà nước vẫn có quy định về việc miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.