Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<75767778798081>»
  • Xem thêm     

    17/07/2014, 02:15:11 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Mỏ cát, sỏi là tài nguyên khoáng sản. Giấy phép hoạt động khoáng sản do Bộ tài nguyên và môi trường cấp cho doanh nghiệp có đủ hồ sơ hợp lệ. Pháp luật không cho phép bán giấy phép hoặc bán mỏ cát, sỏi... Do vậy, nếu doanh nghiệp thỏa thuận mua bán giấy phép hoặc bán mỏ là vi phạm pháp luật, sẽ bị thu hồi giấy phép.

    Theo thông tin bạn nêu thì "bên bán" vẫn chưa được cấp giấy phép hoạt động khoáng sản... do vậy chưa có căn cứ để "bán". Nếu các bên xác lập giao dịch thời điểm này mà sau này có tranh chấp do không thực hiện được thì còn có thể bị xử lý về hình sự đối với bên bán (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).

    Pháp luật cho phép các doanh nghiệp có thể ký kết các hợp đồng đầu tư, hợp tác kinh doanh để cùng góp vốn, nhân lực trong việc khai thác khoáng sản. Do vậy, bạn chỉ có thể ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/07/2014, 02:08:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 16 Nghị định số 94/2010/NĐ-CP quy định: đối tượng bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng là người nghiện ma túy cư trú tại cộng đồng nhưng không tự giác khai báo và không tự nguyện đăng ký cai nghiện tại gia đình hoặc cộng đồng.

    Do vậy, nếu cơ quan có thẩm quyền xét nghiệm, kết quả xác định em bạn nghiện ma túy mà không tự giác khai báo và không tự nguyện đăng ký cai nghiện tại gia đình hoặc tại cộng đồng thì sẽ bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.

    Nếu điện thoại, xe máy là tài sản hợp pháp của em bạn thì sẽ được trả lại.

  • Xem thêm     

    17/07/2014, 12:20:58 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định tại Điều 631 Bộ luật dân sự thì "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình". Do vậy, nếu bạn có tài sản (là chủ sở hữu tài sản) thì có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản đó sau khi bạn qua đời. Nếu tài sản của bạn nằm trong khối tài sản chung của hộ gia đình, tài sản chung vợ chồng... thì bạn chỉ được lập di chúc để định đoạt đối với phần tài sản của bạn trong khối tài sản chung đó.

    Điều 632 Bộ luật dân sự quy định: "mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.". Điều 635 Bộ luật dân sự quy định "người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết..".

    Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì bạn có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho cháu của bạn sau khi bạn qua đời, không phụ thuộc vào việc cháu của bạn có sống cùng với bạn hay không, có hộ khẩu tại địa phương bạn hay không.

    2. Pháp luật hiện hành không quy định bắt buộc địa điểm lập di chúc. Do vậy, bạn có thể lập di chúc ở bất cứ đâu, miễn sao hình thức và nội dung của di chúc phải tuân thủ các quy định tại Điều 650, 652, 653 Bộ luật dân sự. Bạn tham khảo một số quy định của Bộ luật dân sự sau:

    "Điều 649. Hình thức của di chúc

    Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

    Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.

    Điều 650. Di chúc bằng văn bản

    Di chúc bằng văn bản bao gồm:

    1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;

    2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;

    3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;

    4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

    Điều 652. Di chúc hợp pháp

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

    Điều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

    1. Di chúc phải ghi rõ:

    a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

    b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

    c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

    d) Di sản để lại và nơi có di sản;

    đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

    2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc."

  • Xem thêm     

    17/07/2014, 10:09:41 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    - Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về quyền được thăm nom con sau ly hôn của người không trực tiếp nuôi dưỡng như sau:

    Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

    Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

    - Ngoài ra, quyền thăm nuôi con sau ly hôn còn có thể được quy định cụ thể tại bản án, quyết định của tòa án trong vụ việc ly hôn đó.

    Nếu bên trực tiếp nuôi con cản trở việc thực hiện thăm nuôi con thì bên bị cản trở có thể yêu cầu cơ quan thi hành án can thiệp hoặc có thể khởi kiện tới tòa án để yêu cầu thay đổi lại người nuôi con sau ly hôn.

  • Xem thêm     

    17/07/2014, 09:57:39 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu có chứng cứ như vậy thì bạn có thể giử đơn tố cáo và chứng cứ kèm theo tới cơ quan đang trực tiếp quản lý người đó để được xem xét giải quyết. Lối sống như vậy là không lành mạnh với người trong ngành công an.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 04:54:03 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    1. Nếu tình trạng hôn nhân của ba mẹ bạn đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì mẹ ban có quyền làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc ly hôn theo quy định pháp luật.

    2. Nếu ba mẹ bạn chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 03/1/1987 mà nay không có đăng ký kết hôn thì tòa án không công nhận quan hệ là vợ chồng. Việc tranh chấp quyền nuôi con với con chưa đủ 18 tuổi được giải quyết theo luật hôn nhân và gia đình.

    3. Tài sản chung do ba mẹ bạn tự thỏa thuận, nếu có yêu cầu tòa án giải quyết thì tài sản chung vợ chồng (nếu hôn nhân hợp pháp) sẽ được chia đôi trên cơ sở cân nhắc công sức đóng góp và nguồn gốc tài sản. Tài sản riêng của ai thì thuộc về người đó.

    Nếu tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng thì tài sản đứng tên ai là của người đó. Người khác yêu cầu chia với tài sản đó thì phải chứng minh công sức đóng góp.

    Bạn cần nêu nội dung câu hỏi ngắn gọn, cụ thể để được luật sư tư vấn.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 11:06:29 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu người đó vi phạm đạo đức, lối sống thì có thể gửi đơn tới cơ quan người đó và cung cấp các chứng cứ kèm theo để lãnh đạo, cơ quan đó xem xét, xử lý kỷ luật theo quy định của cơ quan và kỷ luật đảng.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 10:54:07 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Nếu việc giao đất của UBND huyện không đúng, một thửa đất giao cho hai hộ gia đình hoặc bàn giao thiếu đất so với quyết định giao đất... thì lỗi thuộc về UBND huyện và người sử dụng đất có thể khiếu nại hoặc khởi kiện UBND huyện về việc đó theo thủ tục tố tụng hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có).

    2. Nếu hộ gia đình, cá nhân lấn chiếm phần diện tích đất của gia đình bạn mà đã được UBND huyện giao đất thì là quan hệ dân sự và bên lấn chiếm phải trả lại đất cho gia đình bạn.

    3. Nếu cán bộ tòa án vi phạm thủ tục tố tụng thì các đương sự có quyền khiếu nại tới Chánh án của tòa án đó để được xem xét giải quyết và có thể yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng. Nếu cán bộ tòa án vi phạm thì tùy vào tính chất mức độ hành vi vi phạm và hậu quả để xử lý.

    4. Nếu xảy ra việc đánh nhau, đánh người, gây rối trật tự công công thì thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan công an. Gia đình bạn có thể làm đơn tới công an cấp xã hoặc cấp huyện để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 10:47:02 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào ban!

    Bạn có thể làm đơn trình bày về tình trạng sức khỏe và nguyện vọng của bạn để được các cấp xem xét, giải quyết. Nếu bạn không đủ sức khỏe để phục vụ thì sẽ được đi khám, điều trị hoặc ra quân sớm...

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 10:24:41 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                 Nếu khi phát hiện hành vi vi phạm mà em bạn đang sử dụng thì bị xử phạt hành chính và bắt buộc cai nghiện - nếu nghiện. Nếu tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy thì bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự. Những tài sản sử dụng vào mục đích mua bán, tàng trữ, sử dụng... chất ma túy thì bị tịch thu. Nếu tài sản không liên quan tới hành vi vi phạm thì được trả lại.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 10:16:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Trong văn bản phải có ghi về thời hạn tạm giữ và hẹn lịch làm việc... Thay vì việc chờ đợi thì bạn có thể mang giấy tờ xe tới công an nơi giữ xe để thực hiện thủ tục và nhận lại xe của mình. Nếu việc xử lý, ra quyết định không đúng thì bạn có thể khiếu nại theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    15/07/2014, 09:45:54 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Việc mua bán hàng hóa, thu mua nông sản... là quan hệ dân sự. Nếu một trong các bên không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ theo thỏa thuận thì bên kia có quyền khởi kiện tới tòa án để giải quyết. Do vậy, các hộ gia đình trên có thể khởi kiện tới tòa án nơi công ty có trụ sở để được xem xét giải quyết theo pháp luật.

    Về nguyên tắc mua bán hàng hóa là giao hàng và giao tiền. Nếu bên bán giao hàng mà chưa nhận tiền thì sẽ gặp rủi ro khi bên mua không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nếu bên bán cho nợ tiền và không biết được tình trạng tài chính, khả năng trả nợ của bên mua thì cũng là một rủi ro... Trước thực trạng suy thoái kinh tế thì việc nợ lần như vậy khá phổ biến và bên chủ nợ sẽ rất khó khăn trong việc đòi tiền nếu bên nợ vỡ nợ, phá sản...

    2. Nếu trong việc mua bán nông sản đó mà người mua có hành vi gian dối, thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì có thể xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc Điều 140 Bộ luật hình sự. Nếu có căn cứ thì những người chủ nợ có thể tố cáo người mua nông sản tới công an để được giải quyết...

  • Xem thêm     

    09/07/2014, 09:56:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 104 Bộ luật hình sự quy định:

    "

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
      a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
      b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
      c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
      d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
      đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
      e) Có tổ chức;
      g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
      h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
      i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
      k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.".

    Bạn dùng dao gây thương tích cho người khác (hung khí nguy hiếm) nên dù thương tật dưới 11% vẫn có thể bị xử lý  hình sự về tội cố ý gây thương tích.

    Nếu hành vi chưa đến mức xử lý hình sự thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội. Mức phạt được quy định sau đây

    Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;

    c) Thả rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    e) Đđộng vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;

    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

    b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

    c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;

    d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;

    đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế;

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;

    g) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hp pháp của tổ chức, cá nhân;

    h) Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức;

    i) Tập trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực cấm;

    k) Tchức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    l) Viết, phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, cá nhân;

    m) Tàng trữ, vận chuyển “đèn trời”.

    4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;

    b) Sản xuất, nhập khẩu, buôn bán "đèn trời".

    5. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a, l, m Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.

    6. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điểm k Khoản 3 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

  • Xem thêm     

    09/07/2014, 09:40:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Hành vi của bạn có thể cấu thành tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự. Bạn tham khảo Điều 248 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Điều 1, Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, cụ thể như sau:

    "

    Điều 1. Về một số quy định tại Điều 248 của Bộ luật hình sự

    1. “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

    2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:

    a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;

    b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;

    c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;

    d) Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.

    3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

    a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

    b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

    c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.

    4. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:

    a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;

    b) Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... thì một lần chơi số đề, một lần cá độ bóng đá, một lần cá độ đua ngựa... (để tính là một lần đánh bạc) được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng đá, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa... trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt. Trách nhiệm hình sự được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.

    Ví dụ 1: Tại kỳ đua ngựa thứ 39, tổ chức vào ngày 15-7-2010, trong khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ A đã cá độ ba đợt cụ thể là đợt một 500.000 đồng, đợt hai 1.000.000 đồng, đợt ba 2.000.000 đồng, trong trường hợp này chỉ coi A đã đánh bạc một lần trong kỳ đua ngựa đó với tổng số tiền là 3.500.000 đồng.

    Ví dụ 2: Ngày 20-7-2010, trong khoảng thời gian từ 10 giờ đến 16 giờ, B mua ba số đề trong một lô đề cụ thể là: mua số 17 với số tiền là 500.000 đồng, mua số 20 với số tiền là 2.100.000 đồng, mua số 25 với số tiền 3.000.000 đồng; trong trường hợp này, chỉ coi B đánh bạc một lần.

    Trong các trường hợp nêu tại ví dụ 1 và ví dụ 2 trên đây, nếu số tiền cá độ đua ngựa, số tiền mua số đề của mỗi đợt từ 2.000.000 đồng trở lên thì cũng không được áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

    5. Việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... như sau:

    5.1. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc

    a) Trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.

    Ví dụ: B mua 5 số đề với tổng số tiền là 100.000 đồng, tỷ lệ được thua 1/70 lần, trong đó có 4 số đề mua mỗi số 10.000 đồng, 1 số đề mua với số tiền 60.000 đồng, hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa... và B đã trúng số đề mua với số tiền 60.000 đồng thì số tiền B dùng đánh bạc trong trường hợp này là 100.000 đồng + (60.000 đồng × 70 lần) = 4.300.000 đồng.

    b) Trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.

    Ví dụ 1: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.1 khoản 5 Điều này, nếu B không trúng số nào thì số tiền B dùng đánh bạc trong trường hợp này là 100.000 đồng.

    Ví dụ 2: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.1 khoản 5 Điều này, nếu hành vi của B bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền B dùng đánh bạc trong trường hợp này là 100.000 đồng (không phụ thuộc vào việc khi có kết quả mở thưởng B có trúng số đề hay không trúng số đề).

    5.2. Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc

    a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người).

    Ví dụ: D là chủ đề của 5 người chơi số đề khác nhau, mỗi người chơi một số đề với số tiền là 50.000 đồng (tổng cộng là 250.000 đồng); tỷ lệ được thua là 1/70 lần và có 2 người đã trúng số đề thì số tiền D dùng để đánh bạc trong trường hợp này là 250.000 đồng + (50.000 đồng × 70 lần × 2 người)  = 7.250.000 đồng.

    b) Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa... thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.

    Ví dụ 1: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu cả 5 người chơi không trúng số đề thì số tiền mà chủ đề dùng đánh bạc là 50.000 đồng × 5 người = 250.000 đồng. 

    Ví dụ 2: Trong ví dụ nêu tại tiết a điểm 5.2 khoản 5 Điều này, nếu hành vi của D bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền D dùng đánh bạc trong trường hợp này là 50.000 đồng × 5 người = 250.000 đồng (không phụ thuộc vào việc khi có kết quả mở thưởng có hay không có người trúng số đề).

    "

  • Xem thêm     

    09/07/2014, 08:40:32 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    1. Pháp luật chỉ quy định về ủy quyền chứ không có "thừa ủy quyền" hay "thiếu ủy quyền". Do vậy, nếu một bên có "quyền" thì có thể "ủy" cho người khác đủ điều kiện về năng lực hành vi, năng lực pháp luật dân sự để thực hiện cái "quyền" của mình. 

    2. Theo quy định pháp luật thì chỉ có cơ quan đăng ký kinh doanh mới có quyền cho phép thành lập doanh nghiệp. Quyết định thành lập doanh nghiệp của Công ty cổ phần địa ốc không làm ra đời công ty địa ốc Bảo Lộc. Do vậy, việc công ty Bảo Lộc tự khắc con dấu và sử dụng con dấu đó để giao dịch là trái pháp luật và giao dịch đó vô hiệu.

     

  • Xem thêm     

    08/07/2014, 08:53:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn! 

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật tố tụng hình sự:

    "Điều 100. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

    Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:

    1. Tố giác của công dân;

    2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;

    3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;

    4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;

    5. Người phạm tội tự thú.

    Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm

    Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.

    Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Điều 102. Người phạm tội tự thú

    Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.

    Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

    1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

    2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

    Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.

    3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.

    Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.

    4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố."

  • Xem thêm     

    08/07/2014, 08:40:17 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu hợp đồng vô hiệu do lỗi của công chứng viên thì công chứng viên phải bồi thường. Bên bị thiệt hại có thể khởi kiện tới tòa án để được giải quyết theo quy định pháp luật. Bạn tham khảo bài viết sau đây: 

    Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra

    Hệ thống công chứng ở nước ta được chính thức thành lập khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về Công chứng nhà nước (CCNN). Từ đó đến khi có Luật Công chứng (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007), Chính phủ đã có thêm hai lần ban hành các nghị định về công chứng. Đó là Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về Tổ chức và hoạt động CCNN và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực.

    Hoạt động công chứng là một hoạt động đặc thù và trong quá trình thực hiện công việc của mình, Công chứng viên (CCV) có thể gây thiệt hại và vấn đề bồi thường được đặt ra. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý giải quyết bồi thường thiệt hại (BTTH) và điều kiện để phát sinh trách nhiệm BTTH do CCV gây ra.

    1. Qua các vụ việc cụ thể

    Vụ việc thứ nhất: Chiều ngày 05/02/2009, bà Nga đến Văn phòng Công chứng (VPCC) Ba Đình đề nghị công chứng hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở với tư cách là bên mua với bên bán là vợ chồng bà Thuỷ, ông Chín. Sau khi kiểm tra hồ sơ, CCV đã thụ lý. Do bên bán không đến công chứng tại trụ sở VPCC (vì đau chân) nên đã đề nghị CCV tiến hành ký hợp đồng ngoài trụ sở. Sau khi tiến hành soạn hợp đồng, đến 19h ngày 05/02/2009, CCV đã đến địa chỉ theo bà Nga yêu cầu để tiến hành công chứng. Ngày 06/02/2009, CCV đóng dấu tại Văn phòng và bà Nga đến VPCC để đóng phí công chứng và nhận 04 bộ hợp đồng bản gốc. Sau khi ký kết hợp đồng, bà Nga đã giao tiền đầy đủ cho vợ chồng bà Thuỷ và ông Chín, đồng thời vợ chồng bà Thuỷ, ông Chín giao lại “sổ đỏ” căn nhà nói trên. Ngày 20/8/2009, bà Nga đến Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội để tiến hành thủ tục sang tên “sổ đỏ” thì được Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội trả lời rằng, mảnh đất và căn nhà của bà Thuỷ và ông Chín đã được bà Thuỷ và ông Chín thế chấp cho Công ty da giày Hà Nội bằng Hợp đồng công chứng số 01/HĐTC ngày 23/7/2008 của VPCC Ba Đình cũng do chính CCV Dũng chứng nhận để vay hai tỷ đồng. Việc thế chấp này chưa được giải chấp, nên bà Nga không đủ tư cách để thực hiện việc sang tên “sổ đỏ”. Bà Nga đã có đơn khiếu nại và yêu cầu BTTH.

    Vụ việc thứ hai: Vợ chồng ông Tấn nợ bà Ri hơn hai tỷ đồng. Cấp sơ thẩm (ngày 03/08/2007), phúc thẩm (ngày 02/11/2007) đều tuyên vợ chồng ông Tấn phải trả cho bà Ri số tiền hơn 2,1 tỷ đồng. Vợ chồng ông Tấn mới trả cho bà Ri được hơn 600 triệu (còn thiếu khoảng hơn 1,4 tỷ) thì đã có yêu cầu Phòng công chứng số 1 Tiền Giang công chứng việc sang nhượng hai căn nhà của mình (đã thế chấp cho Ngân hàng và Ngân hàng đồng ý cho chuyển nhượng) cho bà Tuyết và chị Thi. Biết được việc sang nhượng này nên bà Ri đã có đơn gửi Phòng công chứng số 1 Tiền Giang để ngăn chặn không cho sang nhượng. Tuy nhiên, bà Trúc (CCV) vẫn chứng thực cho vợ chồng ông Tấn bán hai căn nhà này. Cho rằng hành vi của CCV gây thiệt hại cho mình, bà Ri kiện Phòng công chứng số 1 Tiền Giang đòi BTTH số tiền hơn 1,4 tỷ đồng.

    Trong cả hai vụ việc trên, yêu cầu BTTH đều liên quan đến hành vi công chứng của CCV.

    2. Cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do CCV gây ra

    2.1 Không áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

    Khi thi hành Luật Công chứng thì trên thực tế, tồn tại hai hình thức hành nghề công chứng. Đó là Phòng công chứng và VPCC: Nếu CCV làm việc trong các Phòng CCNN (là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp) thì họ là viên chức nhà nước (CCV là công chức hoặc viên chức nhà nước theo quy định tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010); CCV làm việc trong các VPCC thì không là công chức hay viên chức nhà nước.

    Nếu CCV tại VPCC gây thiệt hại, chúng ta không áp dụng các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN), vì như đã nói, họ không phải là công chức hay viên chức nhà nước.

    Còn đối với CCV tại Phòng công chứng, thì “Phòng công chứng là cơ quan nhà nước, do Nhà nước thành lập, CCV là công chức nhà nước”, nên khi những người này tiến hành công chứng và gây thiệt hại, vấn đề BTTH được đặt ra thì có áp dụng Luật TNBTCNN không? Vấn đề này, khi tham khảo ý kiến của một số CCV thuộc Phòng công chứng (nhà nước), chúng tôi đã nhận được câu trả lời là sẽ áp dụng Luật TNBTCNN.

    Trong vụ việc yêu cầu BTTH ở Tiền Giang, người tiến hành công chứng là CCV của Phòng CCNN và bản án không viện dẫn bất kỳ quy định nào của Luật TNBTCNN. Thực tế, Luật TNBTCNN chỉ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 nên việc Toà án không viện dẫn Luật này có thể được giải thích theo hướng Luật chưa có hiệu lực đối với yêu cầu BTTH.

    Tuy nhiên, theo chúng tôi, cho dù có tồn tại hoàn cảnh tương tự như vụ việc này và các tình tiết xảy ra sau khi Luật TNBTCNN có hiệu lực, chúng ta cũng không thể áp dụng Luật TNBTCNN trong mối quan hệ với người bị thiệt hại vì các lý do sau đây:

    Thứ nhất, Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh quy định “Luật này quy định TNBTCNN đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”. Ở đây, hành vi của CCV không phải là hành vi “trong hoạt động tố tụng, thi hành án”. Do đó, nếu muốn áp dụng Luật TNBTCNN thì phải chứng minh được rằng, hành vi của CCV thuộc Phòng công chứng nằm “trong hoạt động quản lý hành chính”. Tuy nhiên, rất khó khẳng định hành vi công chứng là “hoạt động quản lý hành chính”.

    Thứ hai, trong quá trình xây dựng Luật TNBTCNN đã có ý kiến cho rằng “phải quy định thêm nhóm hành vi phải bồi thường trong lĩnh vực CCNN”1. Trong Điều 13 về “Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính”, Luật TNBTCNN có liệt kê các hành vi trong hoạt động quản lý hành chính có thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường nhưng không có hành vi trong lĩnh vực CCNN2. Điều đó cho thấy, vấn đề có hay không đưa hành vi trong lĩnh vực CCNN vào Luật TNBTCNN đã được đặt ra trong quá trình xây dựng Luật này, nhưng các nhà lập pháp đã không đồng ý đưa hành vi trong lĩnh vực CCNN vào trong Luật TNBTCNN.

    Thứ ba, CCV của các VPCC không là viên chức nhà nước nên đương nhiên vấn đề BTTH do hành vi của họ gây ra sẽ không được điều chỉnh bởi Luật TNBTCNN. Vì thế, nếu chúng ta áp dụng Luật TNBTCNN cho hành vi của CCV trong Phòng CCNN thì sẽ tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và bất công bằng giữa công chứng tư và CCNN; thiếu sự bình đẳng giữa hai loại hình công chứng.

    2.2 Áp dụng Luật Công chứng

    - Quy định về bồi thường. Khi xây dựng Luật Công chứng, vấn đề trách nhiệm BTTH do CCV gây ra đã được nhiều người quan tâm. Trong Điều 16 về “nghĩa vụ và quyền của CCV”, Dự thảo (tháng 4/2006) có quy định “CCV có nghĩa vụ bồi thường theo quy định của pháp luật, nếu gây thiệt hại”. Với quy định này thì CCV chịu trách nhiệm trực tiếp về thiệt hại mà mình gây ra (chính CCV gây thiệt hại phải BTTH).

    Theo Báo cáo (số 1604/UBPL11) thẩm tra Dự án Luật Công chứng của Uỷ ban Pháp luật Quốc hội khoá XI thì “đối với CCV thuộc Phòng Công chứng là công chức nhà nước mà gây thiệt hại, thì theo quy định tại Điều 619 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS), cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải BTTH do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ; nếu cán bộ, công chức đó có lỗi thì phải có trách nhiệm hoàn trả cho cơ quan, tổ chức. Do đó, đề nghị cơ quan trình dự án cần nghiên cứu để quy định lại nội dung này cho phù hợp với BLDS”, còn đối với CCV của VPCC, “cần được nghiên cứu để quy định rõ trong dự thảo Luật nhằm nâng cao trách nhiệm của CCV cũng như góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của người yêu cầu công chứng khi có thiệt hại xảy ra do hành vi có lỗi của CCV”. Trong Tài liệu báo cáo tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách tháng 8/2006 và gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cho biết “nhiều ý kiến đề nghị cần quy định theo hướng CCV nếu gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng thì trước hết tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường, sau đó tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu CCV đã gây thiệt hại bồi hoàn cho tổ chức hành nghề công chứng nếu họ có lỗi. Tiếp thu ý kiến đại biểu, chúng tôi đã chỉnh lý như trong Dự thảo Luật”. Trong Dự thảo đề ngày 17/10/2006, chúng ta không thấy quy định như Điều 16 nêu trên mà Điều 33 của Dự thảo về Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng quy định “BTTH do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”. Ở đây, chúng ta không theo hướng chỉ quy định trách nhiệm trực tiếp của CCV mà theo hướng quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng nơi CCV làm việc.

    Cuối cùng, Luật Công chứng được thông qua (ngày 29/11/2006) đã không quy định “CCV có nghĩa vụ bồi thường theo quy định của pháp luật, nếu gây thiệt hại” mà quy định tại khoản 5 Điều 32 rằng “tổ chức hành nghề công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”.

    - Phạm vi của quy định về bồi thường trong Luật Công chứng. Trong vụ việc yêu cầu BTTH liên quan đến VPCC Ba Đình, người yêu cầu bồi thường là người đã yêu cầu công chứng. Trong Báo cáo giải trình ngày 5/1/2010 gửi Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội, VPCC Ba Đình đã nêu “việc chúng tôi có thiếu sót, có lỗi vô ý đã chứng nhận hợp đồng mua bán đã gây thiệt hại cho khách hàng. Chúng tôi nghiêm túc rút kinh nghiệm và sẽ bồi thường thoả đáng cho khách hàng theo quy định của pháp luật dân sự khi có yêu cầu theo quy định tại khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng”. Trong văn bản báo cáo này, VPCC Ba Đình đề cập đến cả Điều 32 Khoản 5 Luật Công chứng và pháp luật về dân sự nên người đọc rất lúng túng khi xác định căn cứ để giải quyết vấn đề bồi thường. Pháp luật dân sự ở đây là những quy định nào? Có phải quy định tại Điều 619 BLDS như Báo cáo thẩm tra Dự án Luật Công chứng của Uỷ ban Pháp luật giải hội khoá XI đã viện dẫn? Việc bà Nga yêu cầu công chứng và CCV chấp nhận công chứng phải chăng đã tồn tại quan hệ hợp đồng và thiệt lại là do công chứng hợp đồng nên đây là thiệt hại trong hợp đồng?

    Trong vụ việc liên quan đến bà Ri, người yêu cầu bồi thường là bà Ri nhưng bà Ri không phải là người đã yêu cầu công chứng, nên không thể viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng: nếu bà Ri có thiệt hại thì thiệt hại này không phải đã “gây ra cho người yêu cầu công chứng” như khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng đã quy định. Khi giải quyết yêu cầu của bà Ri, TAND TP. Mỹ Tho3 không viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng. Theo chúng tôi, việc Toà án không viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng là đúng vì như đã nêu ở trên, bà Ri là người cho rằng có thiệt hại nhưng không là người yêu cầu công chứng.

    Qua hai vụ việc trên chúng ta thấy, không phải cứ có yêu cầu BTTH do hành vi của CCV gây ra là chúng ta vận dụng các quy định về BTTH trong Luật Công chứng. Các quy định về BTTH trong Luật Công chứng chỉ áp dụng đối với “thiệt hại gây ra cho người yêu cầu công chứng”.

    2.3 Áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự

    2.3.1. Trường hợp người bị thiệt hại không là người yêu cầu công chứng

    - Thiệt hại do CCV của Phòng CCNN gây ra. Khi giải quyết yêu cầu của bà Ri, TAND TP. Mỹ Tho4 không viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng mà đã viện dẫn một số quy định của BLDS trong đó có Điều 619 về “BTTH do cán bộ, công chức gây ra”. Việc Toà án không viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng là đúng: thiệt hại không gây ra cho người yêu cầu công chứng. Còn đối với việc Toà án viện dẫn Điều 619 BLDS, chúng ta có thể lý giải như sau: Thiệt hại của bà Ri có thể có là thiệt hại ngoài hợp đồng và là do CCV của Phòng CCNN (là công chức) gây ra.

    - Thiệt hại do CCV của VPCC gây ra. Ví dụ, ông Thiều qua đời vào tháng 10/2007 để lại một số tài sản không có di chúc, trong đó có một thửa đất gần 5.000 m2. Khi những người thừa kế theo pháp luật làm thủ tục phân chia di sản thì vợ kế của ông Thiều đi thế chấp đất trên để vay 170 triệu đồng. Ngày 9/6/2010, hợp đồng vay tiền của bà đã được CCV của VPCC Minh Thư (TP. Tân An) chứng nhận. Về vấn đề này, Trưởng VPCC Minh Thư giải thích: “Khi đến văn phòng làm thủ tục thì có hai người (vợ kế của ông Thiều và một người đàn ông). Cả hai đều xuất trình đầy đủ các giấy tờ hợp lệ. Hôm đó, do đông khách nên Văn phòng không phát hiện ra người đàn ông đó không phải là ông Thiều và đã công chứng để họ vay tiền. Chúng tôi xin nhận trách nhiệm và sẽ bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra cho những người có quyền lợi liên quan”5. Như vậy, phía VPCC đã chấp nhận nếu có thiệt hại thì sẽ bồi thường. Trong trường hợp này, chúng ta cũng không thể áp dụng khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng vì người bị thiệt hại không phải là người yêu cầu công chứng. Chúng ta cũng không thể áp dụng Điều 619 BLDS để yêu cầu VPCC bồi thường vì CCV của VPCC không là “cán bộ, công chức”.

    Theo khoản 1 Điều 26 Luật Công chứng, “VPCC do một CCV thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. VPCC do hai CCV trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh”. Như vậy, VPCC có thể là công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (thực tế, có nhiều VPCC do một CCV thành lập theo loại hình doanh nghiệp tư nhân nhưng lại có nhiều CCV làm việc). Đối với trường hợp Văn phòng là công ty hợp danh thì đây là pháp nhân6 nên chúng ta có thể khai thác Điều 618 BLDS để giải quyết quan hệ bồi thường giữa người bị thiệt hại và VPCC: theo Điều 618 BLDS, “pháp nhân phải BTTH do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã BTTH thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”7.

    Đối với VPCC là doanh nghiệp tư nhân thì chúng ta không thể sử dụng Điều 618 vì doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Khi CCV của doanh nghiệp tư nhân này gây thiệt hại thì chúng ta có thể sử dụng Điều 622 BLDS theo đó “cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải BTTH do người làm công gây ra trong khi thực hiện công việc được giao”. Ở đây, CCV gây thiệt hại có thể được coi là người làm công cho doanh nghiệp tư nhân và Điều 622 quy định trách nhiệm cho “cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác” với tư cách là người sử dụng người làm công nên cũng được áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân (là “chủ thể khác” trong Điều 622)8.

    2.3.2. Trường hợp người bị thiệt hại là người yêu cầu công chứng

    Đối với trường hợp này, như trên đã nêu, chúng ta áp dụng khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng. Điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ không sử dụng quy định nào của BLDS.

    Thực ra Điều 619 BLDS có hai ý: Ý thứ nhất liên quan đến người bị thiệt hại và tổ chức, cơ quan quản lý cán bộ, công chức9. Ý thứ hai là mối quan hệ giữa cán bộ, công chức và cơ quan, tổ chức quản lý10. Khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề công chứng và người bị thiệt hại. Do đó, khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng chỉ thay thế ý thứ nhất của Điều 619 BLDS. Trong quan hệ giữa cán bộ, công chức và cơ quan, tổ chức quản lý sau khi bồi thường cho người bị thiệt hại, các quy định trong Điều 619 (ý thứ hai nêu trên) vẫn được áp dụng.

    Quy định tại khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng đề cập đến “tổ chức hành nghề công chứng” nói chung, không giới hạn ở hành vi của CCV thuộc Phòng CCNN hay thuộc VPCC nên nó được áp dụng cho cả hai. Điều đó có nghĩa là nếu VPCC là công ty hợp danh (pháp nhân) thì đoạn đầu của Điều 618 BLDS (đã nêu ở trên) được thay thế bằng khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng và đoạn sau Điều 618 BLDS vẫn được vận dụng sau khi bồi thường cho người bị thiệt hại11. Còn nếu VPCC là doanh nghiệp tư nhân, đoạn đầu của Điều 622 BLDS (đã nêu ở trên) được thay thế bằng khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng và đoạn sau của Điều 622 BLDS vẫn được vận dụng sau khi bồi thường cho người bị thiệt hại12.

    3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra

    3.1. Trường hợp người bị thiệt hại là người yêu cầu công chứng

    - Lỗi của CCV: Khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng quy định “tổ chức hành nghề công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm (nghĩa vụ) bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng chỉ phải bồi thường khi CCV của tổ chức này có “lỗi”. Trong khoa học pháp lý (nhất là trong BLDS), thuật ngữ “lỗi” được sử dụng rất phổ biến. Nghiên cứu kỹ thì chúng ta thấy thuật ngữ này có thể được hiểu là liên quan đến “nhận thức” của người có hành vi gây thiệt hại (còn được gọi là lỗi “chủ quan”, cái tiềm ẩn bên trong nội tâm của chủ thể); “lỗi” còn được hiểu là hành vi của chủ thể không phù hợp với chuẩn mực của xã hội, quy định của pháp luật (còn được gọi là lỗi “khách quan”, được chủ thể thể hiện ra bên ngoài). Xu hướng hiện nay là xem nhẹ yếu tố lỗi “nhận thức”. Trong Luật Công chứng, khoản 5 Điều 32 đề cập đến “lỗi” của CCV nhưng không cho biết thuật ngữ này cần được hiểu như thế nào. Thiết nghĩ, mọi hành vi của CCV không phù hợp với yêu cầu của pháp luật về công chứng đối với CCV (trong đó bao gồm cả đạo đức nghề nghiệp) đều được coi là “lỗi” theo quy định tại khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng.

    Theo Điều 2 Luật Công chứng, “công chứng là việc CCV chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”13. Bên cạnh đó, Điều 5 Luật Công chứng quy định “Lời chứng của CCV phải ghi rõ thời gian, địa điểm công chứng, họ, tên CCV, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật, chữ ký trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng, giao dịch”. Do đó, theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, “trường hợp phát hiện thấy hợp đồng đã công chứng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của những người liên quan trong hợp đồng thì hướng dẫn cho người có quyền lợi bị thiệt hại khởi kiện ra Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật”14. Trong vụ việc liên quan đến VPCC Ba Đình, Văn phòng này đã thừa nhận “CCV đã có thiếu sót trong quy trình công chứng hợp đồng” là “chủ quan không kiểm tra đăng ký giao dịch đảm bảo”15. Trong vụ việc này, tài sản trong hợp đồng chuyển nhượng được công chứng đã được thế chấp mà theo BLDS (khoản 4 Điều 349), bên thế chấp chỉ “được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý”. Ở đây, bên thế chấp đã chuyển nhượng tài sản thế chấp cho bà Nga nhưng không có sự đồng ý của Ngân hàng (bên nhận thế chấp) nên hợp đồng này vô hiệu16. Điều đó có nghĩa là CCV đã công chứng một hợp đồng không hợp pháp nên có lỗi theo khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng.

    Phần vừa rồi cho thấy lỗi của CCV và lỗi này được thể hiện ra bên ngoài theo dạng “không hành động”: không kiểm tra kỹ thông tin. Thiết nghĩ, lỗi của CCV có thể biểu hiện ra bên ngoài theo dạng “hành động”. Chẳng hạn, nếu thuộc trường hợp từ chối công chứng mà CCV vẫn công chứng thì đây có thể được coi là có lỗi17.

    - Thiệt hại của người yêu cầu công chứng: Khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng quy định “tổ chức hành nghề công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”. Để quy trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng, thì theo quy định này, phải tồn tại thiệt hại; không có thiệt hại thì tổ chức hành nghề công chứng không phải bồi thường cho dù CCV có lỗi theo phân tích ở trên. Vấn đề đặt ra là xác định thiệt hại mà người yêu cầu công chứng phải gánh chịu như thế nào?

    Việc xác định thiệt hại thực tế mà bên yêu cầu công chứng phải gánh chịu là rất khó. Trong vụ việc liên quan đến VPCC Ba Đình, bà Nga ký hợp đồng mua bán với giá 2,4 tỷ đồng nhưng không đăng ký sang tên được vì tài sản đã thế chấp cho Ngân hàng. VPCC Ba Đình đã chấp nhận về nguyên tắc sẽ bồi thường và bà Nga đã đòi bồi thường 3 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa - theo bà Nga - thiệt hại của bà là 3 tỷ đồng. Tại sao lại là 3 tỷ đồng? VPCC đã trả lời rằng, yêu cầu này “chưa phù hợp”, “sẽ bồi thường cho bà Nga trên cơ sở phán quyết của TAND các cấp có thẩm quyền” (Công văn ngày 27/11/2009). Phòng Bổ trợ tư pháp Hà Nội đã mời bà Nga và CCV VPCC Ba Đình đến làm việc để giải quyết. Tại buổi làm việc này, phía bà Nga đề nghị VPCC Ba Đình BTTH là một tỷ năm trăm triệu đồng. VPCC Ba Đình đã không chấp nhận bồi thường số tiền này với lý do bà Nga không đưa ra được căn cứ thiệt hại cụ thể.

    Vụ việc trên cho thấy, việc xác định chính xác thiệt hại mà người yêu cầu công chứng gánh chịu là rất khó. Trong trường hợp này, bên yêu cầu thiệt hại phải chứng minh thiệt hại cụ thể của mình.

    - Quan hệ nhân quả: Theo khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng, “tổ chức hành nghề công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”.

    Với quy định này thì chỉ thiệt hại “do lỗi” của CCV gây ra mới được bồi thường (chỉ thiệt hại có mối quan hệ nhân quả với lỗi của CCV mới được bồi thường). Cũng theo quy định trên, nếu thiệt hại do lỗi của người yêu cầu công chứng gây ra thì tổ chức hành nghề công chứng không phải bồi thường. Trong vụ việc liên quan đến VPCC Ba Đình, thiết nghĩ bà Nga cũng có lỗi. Cụ thể là: Bà Nga là người tham gia ký kết hợp đồng mua bán nên bà Nga cũng có trách nhiệm kiểm tra đối tượng của hợp đồng mua bán. Việc CCV công chứng hợp đồng mua bán tài sản đã thế chấp là có lỗi, nhưng do bà Nga cũng có trách nhiệm kiểm tra, tìm kiếm thông tin nên trong thiệt hại của bà Nga có một phần lỗi của bà Nga. Do bà Nga cũng có một phần lỗi trong việc để thiệt hại của mình phát sinh nên bà Nga không được bồi thường khoản thiệt hại tương ứng với phần lỗi của mình. Nói cách khác, tổ chức hành nghề công chứng không có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người yêu cầu công chứng khi chính người yêu cầu công chứng cũng có lỗi một phần, tổ chức hành nghề công chứng chỉ BTTH tương ứng với phần lỗi của mình.

    3.2 Trường hợp người bị thiệt hại là người không yêu cầu công chứng

    - Điều kiện trong Điều 618, 619, 622 BLDS. Khi người bị thiệt hại không phải là người yêu cầu công chứng, chúng ta không thể áp dụng khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng như đã phân tích ở trên. Trong trường hợp này, nếu muốn quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng (khi khởi kiện thì tổ chức này sẽ là bị đơn), chúng ta có thể áp dụng Điều 618, 619 hay 622 BLDS tuỳ vào việc CCV làm việc tại Phòng CCNN (thì áp dụng Điều 619 BLDS) hay VPCC (thì áp dụng Điều 618 hay 622 BLDS). Để quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng, chúng ta phải thoả mãn các điều kiện nêu trong các điều luật này.

    Nếu CCV làm trong Phòng CCNN thì khi muốn quy trách nhiệm cho Phòng công chứng, phải thoả mãn các điều kiện sau đây của Điều 619: Thứ nhất là phải tồn tại thiệt hại (việc xác định thiệt hại đã được phân tích ở phần trên). Thứ hai, thiệt hại này do CCV của Phòng công chứng gây ra. Thứ ba, thiệt hại được “gây ra trong khi thi hành công vụ”. Trong vụ việc liên quan đến bà Ri, CCV đã lấy chữ ký của bên bán ngoài giờ làm việc. Vậy nếu có thiệt hại thì thiệt hại này có do CCV gây ra trong khi thi hành công vụ không? Câu trả lời rất khó. Thiết nghĩ, nếu bắt buộc phải có câu trả lời thì chúng ta nên theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại (tức chấp nhận điều kiện thứ ba này được thoả mãn).

    Nếu CCV làm trong VPCC thì khi muốn quy trách nhiệm của VPCC (là công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân), chúng ta phải thoả mãn các điều kiện sau đây của Điều 618 hay Điều 622: Thứ nhất, có thiệt hại thực tế. Thứ hai, thiệt hại do CCV (người của pháp nhân hay người làm công của doanh nghiệp tư nhân) gây ra. Thứ ba, thiệt hại do CCV gây ra “trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao” (Điều 618) hay “trong khi thực hiện công việc được giao” (Điều 622).

    - Điều kiện khác: Ngoài các điều kiện nêu tại Điều 618, 619 hay 622 BLDS nêu trên, để quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng, chúng ta có cần thêm điều kiện khác không?

    Trách nhiệm của tổ chức công chứng theo các quy định trên là dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho CCV thuộc tổ chức công chứng. Các điều kiện trên chỉ là điều kiện để buộc tổ chức công chứng “thực hiện thay” trách nhiệm của CCV nhằm tạo điều kiện cho người bị thiệt hại. Để có chủ thể thực hiện “thay” thì bản thân CCV đã phải có trách nhiệm. Do đó, thiết nghĩ, các điều kiện để phát sinh trách nhiệm cho chính CCV cần được hội đủ. Trong vụ việc liên quan đến bà Ri, Phòng công chứng bị kiện bồi thường do hành vi của CCV của mình nên đây là yêu cầu bồi thường thay. Vì thế để yêu cầu bồi thường đối với Phòng công chứng được chấp nhận thì các căn cứ phát sinh trách nhiệm của chính CCV phải hội đủ. Thực tế, bên cạnh việc viện dẫn Điều 619 BLDS, Tòa sơ thẩm (sau nhiệm Toà phúc thẩm) đã viện dẫn cả Điều 604 BLDS về căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH18. Điều này cho thấy dường như Toà án cũng theo hướng, ngoài các điều kiện tại Điều 619, cần phải hội đủ các điều kiện tại Điều 604 BLDS đối với trách nhiệm của chính CCV (hành vi trái pháp luật, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả và lỗi).

    Đối với vụ việc liên quan đến bà Ri, theo án lệ của Hội đồng Thẩm phán19, đây là trường hợp từ chối công chứng (vì đã có cá nhân ngăn chặn) nhưng CCV vẫn tiến hành công chứng nên có thể coi CCV đã có hành vi trái pháp luật theo quy định tại Điều 604 BLDS. Tuy nhiên, điều kiện về tồn tại thiệt hại có được thoả mãn hay không trong vụ việc này còn phải xem xét lại (khi không đủ chứng cứ để khẳng định thiệt hại tồn tại thì trách nhiệm của CCV không phát sinh cho dù người này có hành vi trái pháp luật).

    - Quy trách nhiệm trực tiếp cho CCV: Chúng ta thấy, nếu muốn quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng đối với thiệt hại do CCV của tổ chức này gây ra thì phải hội đủ các điều kiện của Điều 618, 619 hay 622 BLDS. Nhưng nếu các điều kiện này không hội đủ thì liệu có thể quy trách nhiệm trực tiếp cho CCV không? BLDS không quy định thực sự rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, trách nhiệm của tổ chức công chứng tại Điều 618, 619 hay 622 BLDS là trách nhiệm “thực hiện thay” trách nhiệm của CCV. Vì thế, nếu trách nhiệm thực hiện thay không thoả mãn thì vẫn còn trách nhiệm của CCV nên người bị thiệt hại có quyền yêu cầu trực tiếp CCV phải BTTH.

    *

    Như vậy, vấn đề BTTH do CCV gây ra được điều chỉnh rất phức tạp trong pháp luật thực định Việt Nam. Sự phức tạp này một phần là do có sự phân biệt CCV thuộc Phòng công chứng (viên chức nhà nước) và CCV thuộc VPCC (công chứng tư). Sự phức tạp một phần còn do sự chồng chéo giữa các văn bản như Luật Công chứng, BLDS và có sự hiện diện của nhiều chủ thể trong cùng một vụ việc như người bị thiệt hại (có thể là người yêu cầu công chứng hay không yêu cầu công chứng), CCV gây thiệt hại và tổ chức hoạt động công chứng được yêu cầu bồi thường.

    Do có sự phức tạp nêu trên, khi giải quyết yêu cầu BTTH do CCV gây ra, chúng ta cần phân biệt người yêu cầu BTTH là người yêu cầu công chứng hay người không yêu cầu công chứng. Đối với trường hợp thứ nhất, chúng ta áp dụng khoản 5 Điều 32, Luật Công chứng để xác định trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng. Đối với trường hợp thứ hai, chúng ta áp dụng các quy định về BTTH ngoài hợp đồng trên cơ sở Điều 604 và Điều 618, 619 hay Điều 622 BLDS.

    Khi thiệt hại do CCV gây ra, không nên áp dụng Luật TNBTCNN cho dù CCV là công chức, viên chức. Việc không áp dụng Luật TNBTCNN tạo ra sự công bằng giữa các Phòng CCNN và VPCC tư, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bồi thường.

     

    Theo: TS. Đỗ Văn Đại - Quyền Trưởng khoa Luật dân sự, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

     

     

  • Xem thêm     

    08/07/2014, 08:36:05 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu bạn mua xe của cơ quan mà chưa sang tên thì giao dịch đó chưa được pháp luật thừa nhận. Nếu có sự việc xảy ra thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét lại giao dịch đó để xác định chủ sở hữu tài sản và trách nhiệm pháp lý của các bên. Việc sử dụng xe như vậy không vi phạm pháp luật hình sự.

  • Xem thêm     

    07/07/2014, 09:45:19 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào ban!

    Trường hợp bạn nêu thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất, đăng ký thế chấp lại và tài sản vẫn duy trì để đảm bảo khả năng trả nợ.

  • Xem thêm     

    07/07/2014, 09:32:56 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu trong sổ địa chính vẫn còn tên gia đình bạn, gia đình bạn vẫn còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì gia đình bạn sẽ có tên trong phương án nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

344 Trang «<75767778798081>»