Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

25 Trang «<3456789>»
  • Xem thêm     

    09/07/2020, 09:13:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”

    Như vậy, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 nêu trên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý thương tích. Theo như bạn trình bày, chồng bạn có hành vi dùng tay và chân đấm đá chị A bầm tím hết mặt nhưng ko bị sước xát gì nên nhưng chị A viết đơn kiện chồng bạn đánh chị ta. Nên chồng bạn có thể sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì không đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 nêu trên

    Tuy nhiên về vấn đề giám định, người bị bạn đánh có thể tự yêu cầu cơ sở y tế thực hiện giám định tỷ lệ thương tật cho họ. Tỷ lệ thương tật của họ do bạn gây ra là cơ sở để xác định họ có hành vi phạm tội và có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

    Nếu không đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự, bạn có thể bị xử phạt hành chính theo khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định như sau:

    “Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng.

    […]

     

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;”

    Trong trường hợp của chồng bạn, thì vợ chồng bạn nên thăm hỏi, bồi dưỡng thương tích và bồi thường thiệt hại cho người bị hại để họ còn rút đơn không kiện cáo chồng bạn là phương án hay nhất hiện nay đối với bạn.

  • Xem thêm     

    28/06/2020, 05:52:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ quy định tại điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tội tàng trữ, mua bán trái phép ma túy được quy định như sau:

    Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

    1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

    2.250 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội 02 lần trở lên;

    c) Đối với 02 người trở lên;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

    g) Qua biên giới;

    h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

    i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

    k) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

    m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

    o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

    p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

    q) Tái phạm nguy hiểm.

    3.251 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;

    b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

    c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    ......

    Theo quy định trên thì tội buôn bán ma túy là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp bạn của anh bạn thì mua bán ma túy đá có trọng lượng trên 20g và ma túy đá dưới thể rắn thì tội của anh bạn nằm trong khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm căn cứ tại Điểm n Khoản 2 Điều 251 BLHS: “n) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;”

  • Xem thêm     

    28/06/2020, 05:39:39 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như bạn trình bày thì khi hàng xóm trồng cây sang phần đất nhà bạn thì gia đình bạn phải có thỏa thuận cho phép phía bên gia đình bạn chặt bỏ cây này. Tuy nhiên, sau đó gia đình phía hàng xóm lại nói rằng họ không cho phép gia đình bạn chặt. Đối chiếu với quy định trên thì gia đình bạn không được tự ý chặt bỏ cây cối của họ mà cần phải có sự can thiệp và cho phép của phía cơ quan nhà nước, nếu chứng minh được rằng hai bên đã có thỏa thuận về vấn đề chặt cây thì gia đình bạn tiến hành hành vi trên là hoàn toàn hợp pháp.

  • Xem thêm     

    21/06/2020, 10:38:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đối với hành vi cố ý hủy hoại tài sản của người khác, tùy vào tính chất của hành vi và mức độ thiệt hại có thể bị trung cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính.

    Điều 178 Bộ luật hình sự 2015 quy định về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:

    1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, tài sản là di vật, cổ hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa hoặc tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    c) Gây thiệt hại tài sản là bảo vật quốc gia;

    d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Để che giấu tội phạm khác;

    e) Vì lý do công vụ của người bị hại;

    g) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

    h) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

    b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

    Theo đó, bạn có hành vi nhổ cây trồng nhà người khác là có hành vi hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản, nếu mức thiệt hại tài sản từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản người khác. Khi đó, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    Nếu mức độ thiệt hại không đủ cấu thành tội phạm được viện dẫn ở trên thì bạn có thể bị xử phạt hành chính theo Điểm a khoản 2 điều 15 nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về mức phạt hành chính với hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác mức phạt như sau:

    2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác;

  • Xem thêm     

    18/06/2020, 01:07:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo điều 134, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định về tội cố ý gây thương tích như sau:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

    5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Làm chết 02 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

    - Như vậy đối với tội cố ý gây thương tích phải căn cứ vào mức độ tổn thương cơ thể sẽ bị xử lý theo các mức độ vi phạm:

    +) Tỷ lệ thương tích từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp như: Dùng hung khí nguy hiểm, dùng a-xít sunfuric (H2SO4), có tổ chức...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    +) Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, thuộc các trường hợp sau: Làm chết 02 người trở lên, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    Như vậy, Phạm tội cố ý gây thương tích sẽ bị phạt luật xử lý nghiêm tuỳ theo mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ tổn thương của cơ thể. Tuy nhiên, vì tính chất của đồng phạm có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm chung, còn tính chất và mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm là yếu tố ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người đồng phạm.

    Ở đây , cả nếu người người đồng phạm đều không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ , phạm cùng một tội nhưng vẫn có thể bị tuyên mức án khác nhau vì việc tuyên mức hình phạt còn phụ thuộc vào mức độ phạm tội của từng người trong vụ án.

  • Xem thêm     

    16/06/2020, 09:06:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Các tội phạm về ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Người phạm tội khi bị bắt được quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Một trong những người bào chữa được ưu tiên là mời luật sư. Để được tư vấn Thuê Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự bạn hãy liên lạc trực tiếp với luật sư để có những trao vấn đề được cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 05:19:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì “Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm” nếu xét thấy bản án hoặc quyết định sơ thẩm đó chưa thỏa đáng.

    Như vậy, nếu thấy mức hình phạt đối với mình còn nặng, bạn hoàn toàn có quyền kháng cáo bản án của Tòa án.

    Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, hoặc kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án tại Tòa án trong trường hợp chí bạn vắng mặt tại phiên toà, chú bạn phải gửi đơn kháng cáo theo mẫu đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm.

    Tuy nhiên nếu bạn có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nhưng bị Tòa tuyên án với mức hình phạt như bạn nêu mà cảm thấy là quá nặng thì có thể cân nhắc để kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm hình phạt án treo đồng thời xin giảm nhẹ 36 tháng thử thách bởi vì:

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLHS 2015 thì “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”

    Trong trường hợp Tòa án giảm mức hình phạt xuống dưới 3 năm tù, nếu xét thấy có đủ căn cứ để cho hưởng án treo thì Tòa án sẽ cho bạn hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, khi xét thấy hình phạt trong bản án đối với mình quá nặng, bạn có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp phúc thẩm có chấp nhận yêu cầu kháng cáo hay không còn phụ thuộc vào việc chứng minh các yêu cầu kháng cáo có căn cứ hay không?

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 05:04:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hiện nay, pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm đánh ghen. Tuy nhiên, hành vi đánh ghen có thể được hiểu là một bên dùng lời nói (mắng, chửi, cãi nhau,…) hoặc hành động thô bạo tác động đến người khác do ghen tuông. Trong một số trường hợp, đánh ghen có thể bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng theo Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, cụ thể là:

    - Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    - Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau; Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    - Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng; Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau; Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác.

    - Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ

    Trường hợp nghiêm trọng hơn, người có hành vi đánh ghen có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và Tội làm nhục người khác theo Điều 134, Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và có thể phải chịu mức phạt tù lên đến 19 năm.

    Ngoài ra, bạn bị đánh ghen cũng có quyền khởi kiện đòi bồi thường về sức khỏe và danh dự đã bị xâm hại theo quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự 2015.

    Khi nhận thấy có dấu hiệu bị làm nhục, bị gây thương tích như trên, đầu tiên bạn là người bị đánh ghen cần phải tố cáo với cơ quan điều tra có thẩm quyền gồm:Cơ quan cảnh sát điều tra; Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Trường hợp cơ quan điều tra khởi tố, thì có thể yêu cầu bồi thường trong phần yêu cầu trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Trường hợp cơ quan điều tra thông báo kết quả giải quyết không có dấu hiệu hình sự, thì có thể khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để đòi bồi thường theo Điều 35 và Điều 39 và Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 04:55:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như nội dung trên, có có thể xảy ra: nếu bạn không biết việc những người kia để đánh người hoặc mức độ thương tích của người bị hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không bị khởi tố. Nếu bạn biết việc bạn mình xúi dục những người kia để họ thực hiện hành vi cố ý gây thương tích và mức độ thương tích của người bị hại đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này bạn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với vai trò là người giúp sức trong vụ đồng phạm.

  • Xem thêm     

    10/06/2020, 09:13:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo : Ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng; các hành vi học sinh không được làm; khen thưởng kỷ luật như sau:

    “Điều 19. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng

    1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng.......

    e) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;...."

    Điều 41. Các hành vi học sinh không được làm

    1. Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, người khác và học sinh khác.

    2. Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, tuyển sinh.

    3. Làm việc khác; sử dụng điện thoại di động hoặc máy nghe nhạc trong giờ học; hút thuốc, uống rượu, bia và sử dụng các chất kích thích khác khi đang tham gia các hoạt động giáo dục.

    4. Đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.

    5. Lưu hành, sử dụng các ấn phẩm độc hại, đồi truỵ; đưa thông tin không lành mạnh lên mạng; chơi các trò chơi mang tính kích động bạo lực, tình dục; tham gia các tệ nạn xã hội.

    Điều 42. Khen thưởng và kỷ luật

    1. Học sinh có thành tích trong học tập và rèn luyện được nhà trường và các cấp quản lý giáo dục khen thưởng bằng các hình thức sau đây:

    a) Khen trước lớp, trước trường;

    b) Khen thưởng cho học sinh tiên tiến, học sinh giỏi;

    c) Cấp giấy chứng nhận, giấy khen, bằng khen, nếu đạt thành tích trong các kỳ thi, hội thi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

    d) Các hình thức khen thưởng khác.

    2. Học sinh vi phạm khuyết điểm trong quá trình học tập, rèn luyện có thể được khuyên răn hoặc xử lý kỉ luật theo các hình thức sau đây:

    a) Phê bình trước lớp, trước trường;

    b) Khiển trách và thông báo với gia đình;

    c) Cảnh cáo ghi học bạ;

    d) Buộc thôi học có thời hạn.”

    Như vậy, học sinh đánh nhau đánh trong trường THPT dân tộc nội trú, với hành vi này là hành vi cấm, nói cách khác, hành vi này vi phạm nội quy của trường, lớp. Theo đó, hiệu trưởng có quyền xử lý kỉ luật đối với học sinh đánh nhau.

    Theo thông tin bạn cung cấp, hiệu trưởng có tổ chức cho hai gia đình gặp nhau để bàn bạc, và gia đình họ hàng hai bên đến quá đông. Việc hiệu trưởng yêu cầu chỉ cho bố mẹ của 2 bên gặp nhau và yêu cầu những người khác ra ngoài là không vi phạm pháp luật. Vì nhà trường vẫn đảm người có người đại diện hợp pháp của hai học sinh, đối với họ hàng, họ không phải là người đại diện theo pháp luật cho các học sinh đó. Mặt khác, họ hàng đến quá đông sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình bàn bạc thỏa thuận của hai bên. Hiện chưa có quy định nào của pháp luật quy định việc không cho họ hàng đi cùng gia đình đến giải quyết vụ việc đánh nhau là vi phạm pháp luật. Do đó, trong tình huống này, hiệu trưởng không vi phạm pháp luật.

    Theo khoản 2 Điều 42 Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT thì học sinh đánh nhau có thể bị: phê bình trước lớp, trước trường; khiển trách và thông báo với gia đình; cảnh cáo ghi học bạ hoặc buộc thôi học có thời hạn. Việc áp dụng hình thức xử lý như thế nào phụ thuộc hành vi đánh bạn của học sinh kia. Do đó, bạn hoặc người đại diện gia đình bạn hoặc người bị đánh có thể kiến nghị, đề nghị bằng văn bản để lãnh đạo nhà trường xúc tiến xử lý hành vi vi phạm của học sinh đã đánh nhau kia, nếu lãnh đạo nhà trường không xử lý thì bạn có thể khiếu nại lên cấp phòng giáo dục hoặc sở giáo dục để được xử lý theo quy định.

  • Xem thêm     

    09/06/2020, 10:54:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy đinh về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khở người khác thì có quy định như sau:

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

    c) Phạm tội 02 lần trở lên;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Làm chết 02 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

    6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

    Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

    1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

    Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

    2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

    a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

    b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

    c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

    3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

    4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

    5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

    Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

    7. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.

    Như vậy, từ những quy định trên có thể thấy người dưới 18 tuổi cố ý gây thương tích 32% sẽ bị xử phạt theo mức hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà Bộ luật hình sự quy định.

    Vì vậy bạn đối chiếu với trường hợp trên xem bạn có thuộc trường hợp trên hay không? Nếu thuộc trường hợp trên thì bạn có thể bị xem xét khởi tố và bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Bên cạnh đó nếu bạn dưới 18 tuổi mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật đối với những người chưa thành niên phạm tội.

  • Xem thêm     

    09/06/2020, 10:40:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”

    Như vậy, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 nêu trên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý thương tích. Theo như bạn trình bày, bạn có hành vi dùng tay và chân đấm đá mấy cái không chảy máu hết nên anh ta viết đơn kiện bạn đánh anh ta. Nên bạn của bạn có thể sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì không đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 nêu trên

    Tuy nhiên về vấn đề giám định, người bị bạn đánh có thể tự yêu cầu cơ sở y tế thực hiện giám định tỷ lệ thương tật cho họ. Tỷ lệ thương tật của họ do bạn gây ra là cơ sở để xác định họ có hành vi phạm tội và có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

    Nếu không đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự, bạn có thể bị xử phạt hành chính theo khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định như sau:

    “Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng.

    […]

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;”

    Trong trường hợp của bạn, trong lúc xô sát thì có rất đông người vào can ngăn không may có một người bị mãnh chai gì đấy làm cho bị thương phải nhập viện, vài hôm sau thì họ viết đơn nhờ công an vào giải quyết. Bạn nên thăm hỏi, bồi dưỡng thương tích và bồi thường thiệt hại cho người bị hại để họ còn rút đơn không khởi tố bạn là phương án hay nhất hiện nay đối với bạn

  • Xem thêm     

    09/06/2020, 10:25:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật tố cáo 2018 thì:

    “2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các đối tượng sau đây:

    a) Cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ;

    b) Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ;

    c) Cơ quan, tổ chức.”

    Tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 12 Luật tố cáo 2018 quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo như sau:

    “1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.

    Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.

    2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo chủ trì giải quyết; người đứng đầu cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp giải quyết.

    ...”

    Như thông tin bạn trình bày thì người công an này có những hành vi vi phạm pháp luật, bạn có quyền viết đơn tố cáo. Tuy nhiên bạn sẽ phải có các bằng chứng chứng minh công an này có các hành vi vi phạm pháp luật như không làm đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Đơn tố cáo bạn có thể gửi trực tiếp đến người đứng đầu của đơn vị công an nơi người đó công tác để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    08/06/2020, 05:07:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ96.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Tái phạm nguy hiểm;

    đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    g)97 (được bãi bỏ)

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b)98 (được bãi bỏ)

    c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

    b)99 (được bãi bỏ)

    c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp người người kia đã mua hàng của bạn đã đưa ra những thông tin gian dối nhằm mục đích để bạn bán hàng chậm trả tiền đến nay đã quá hạn thỏa thuận mà vẫn chưa trả. Tuy nhiên để xác định người mua hàng này có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không thì phải xem xét tình hình thực tế. Do đó, đối với trường hợp này, bạn có thể làm đơn trình báo gửi đến cơ quan công an đề nghị họ hỗ trợ điều tra về hành vi của người đồng nghiệp này. Khi gửi đề nghị đến cơ quan công an bạn nên cung cấp các chứng cứ chứng minh bên vay đưa ra thông tin gian dối và đến nay họ không trả nợ dù bạn đã thông báo trả nợ nhiều lần.

    Nếu cơ quan công an xác minh không đủ yếu tố để truy tố hình sự thì bạn cũng thể khởi kiện người đó theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi lại số tiền mà người đó không trả. Trước hết bạn hãy thu thập tất cả các hóa đơn, giấy tờ ( có thể sử dụng cả băng ghi âm ghi hình – nếu có) để làm chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội của khách hàng đó. Theo quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, bạn có thể gửi hồ sơ tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi diễn ra sự việc đó hoặc nơi mà khách hàng đó cư trú(trong trường hợp này là nơi cư trú của khách hàng).

  • Xem thêm     

    07/06/2020, 09:46:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, bên mua đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên có thể áp dụng các chế tài thương mại được quy định trong Luật Thương mại:

    Buộc thực hiện đúng Hợp đồng được quy định ở Điều 297 Luật Thương mại 2005, bên bị vi phạm nghĩa vụ thanh toán được quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng, nghĩa là phải thanh toán đầy đủ tiền theo quy định của Hợp đồng.

    Bên bán có thể gia hạn thêm một thời gian hợp lý để bên mua khắc phục vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Thời gian ngắn hay dài phụ thuộc vào hai bên thỏa thuận.

    Tuy nhiên trong trường hợp này bên mua đã cố tình không thực hiện Hợp đồng cho nên việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng Hợp đồng và gia hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là không khả thi.

    Việc xử lý trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán thường rất khó khăn do không nhận được sự hợp tác của bên mua. Bạn cũng có thể khởi kiện người đó theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi lại số tiền mà người đó không trả. Trước hết bạn hãy thu thập tất cả các hóa đơn, giấy tờ ( có thể sử dụng cả băng ghi âm ghi hình – nếu có) để làm chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội của khách hàng đó. Bạn có thể nhờ sự can thiệp giải quyết của Tòa án. Theo quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, bạn có thể gửi hồ sơ tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi diễn ra sự việc đó hoặc nơi mà khách hàng đó cư trú.

  • Xem thêm     

    01/06/2020, 10:11:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tuy nhiên bạn không nêu rõ, khi thực hiện hành vi, N có những hành vi cố ý thực hiện đến cùng việc gây thương tích hay chỉ mang tính đe dọa khiến bạn sợ mà né tránh… Nếu có căn cứ để chứng minh N có hành vi muốn thực hiện đến cùng hành vi muốn đâm bạn thì có thể xem là hành vi phạm tội chưa đạt tại Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

    Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”.

    Cụ thể, N có thể bị để truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    ….

    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn bị một người cầm dao tấn công lao vào bạn, nhưng do tránh được nên người cầm dao không đâm được bạn, hành vi của người cầm dao trong trường hợp này có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích, nặng dù không đâm được bạn nhưng trên thực tế, việc N không đâm được là do bạn tránh được chứ không phải N tự nguyện, vì vậy, trong trường hợp này, N có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.  Tuy nhiên, vấn đề này phụ thuộc vào hành vi thực tế, và quá trình diên biến của vụ việc cũng như kết luận điều tra của cơ quan điều tra. Bạn có thể làm đơn tố cáo hành vi của N đến cơ quan công an để điều tra và xử lý.

    Trường hợp không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý hành chính. Mức xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình:

    “Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng.

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    ...

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

    4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;...

    5. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a, l, m Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.”

  • Xem thêm     

    01/06/2020, 08:51:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như thông tin bạn đưa ra thì chúng tôi hiểu rằng bạn chỉ đơn thuần nhờ người khác giữ đồ của mình là chiếc xe máy, giữa hai bên chỉ ngầm hiểu rằng bên được bạn nhờ sẽ quản lý, trong nom tài sản của trong một thời gian nhất định và không hề có mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Đồng thời, sau khi nhận đồ về thì bạn có phát hiện tài sản của mình nhờ người đó cầm hộ đã bị mất mát một phần.

    Khoản 1 Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 về hình thức giao dịch quy định:

    Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

    Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

    Đồng thời, quy định về hình thức của hợp đồng dân sự như sau:

    – Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

    – Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

    Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

    Như vậy, pháp luật quy định có một số hợp đồng nhất định có thể được giao kết bằng lời nói. Nội dung vụ việc của bạn liên quan đến hoạt động gửi giữ tài sản và quy định về Hợp đồng gửi giữ tài sản trong Bộ luật dân sự cũng không có quy định hình thức bắt buộc hợp đồng gửi giữ tài sản.

    Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, giữa bạn và người bạn nhờ trông giữ tài sản đã xác lập một hợp đồng gửi giữ tài sản theo quy định của pháp luật. Hướng giải quyết vụ việc như sau: căn cứ theo quy định tại Điều 557 Bộ luật dân sự 2015 thì người giữ tài sản có nghĩa vụ:

    – Bảo quản tài sản theo đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ.

    – Chỉ được thay đổi cách bảo quản tài sản nếu việc thay đổi là cần thiết nhằm bảo quản tốt hơn tài sản đó, nhưng phải báo ngay cho bên gửi biết về việc thay đổi.

    – Thông báo kịp thời cho bên gửi biết về nguy cơ hư hỏng, tiêu hủy tài sản do tính chất của tài sản đó và yêu cầu bên gửi cho biết cách giải quyết trong một thời hạn; nếu hết thời hạn đó mà bên gửi không trả lời thì bên giữ có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo quản và yêu cầu bên gửi thanh toán chi phí.

    – Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.

    Từ đó có thể thấy, trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường phần tài sản bị mất mát trong quá trình gửi giữ thuộc về người nhận gửi giữ, chính là người bạn nhờ trông đồ.

    Tuy nhiên, một vấn đề rất quan trọng ở đấy đó là việc bạn phải chứng minh sự mất mát về tài sản. Theo nguyên tắc của pháp luật dân sự thì ai có yêu cầu thì cũng có nghĩa vụ chứng minh, đưa ra các bằng chứng cho yêu cầu đó. Cần thấy rằng trong trường hợp của bạn thì việc chứng minh là tương đối khó, bởi tại thời điểm giao kết hợp đồng thì việc cung cấp thông tin về tài sản gửi giữ đã không được bạn thực hiện.

    Trong trường hợp giá trị phần tài sản mất mát lớn và không chứng minh được trách nhiệm bồi thường của người cầm giữ thì bạn có thể làm đơn tố cáo đến cơ quan công an về hành vi nêu trên. Cụ thể, với những thông tin bạn đưa ra thì chúng tôi cho rằng, hành vi của người bạn nhờ trông giữ tài sản có những dấu hiệu của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015.

  • Xem thêm     

    01/06/2020, 08:44:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội đánh bạcnhư sau:

    “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”.

    Đánh bạc online thông thường và thu về tiền ảo thì không phải đánh bạc trái phép. Tuy nhiên, hành vi đánh bạc online rồi đổi từ tiền ảo sang tiền thật (bất kể thông qua trả tiền trực tiếp giữa các bên hay trả bằng thẻ điện thoại, bởi thẻ điện thoại được tính là hiện vật có thể quy đổi ra giá trị), thì lại là hành vi đánh bạc trái phép. Do đó, nếu số tiền hoặc hiện vật dùng để trao đổi (ở đây là thẻ điện thoại) có giá trị từ 05 triệu đồng hoặc nếu người chơi từng bị kết án về tội đánh bạc hay tội tổ chức đánh bạc thì người chơi đó vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội đánh bạc. Nếu giá trị nhỏ hơn 05 triệu đồng, với hành vi đánh bạc online và đổi ra tiền thật, bạn có thể bị xử phạt hành chính từ 1.000.000 đến 2.000.000 đồng (căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP).

  • Xem thêm     

    31/05/2020, 03:48:46 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hành vi đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật. Tùy vào tính chất nguy hiểm của hành vi và mức độ thiệt hại gây ra, người thực hiện hành vi này có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật nước sở tại; đồng thời phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị tổn hại về sức khỏe do hành vi đó gây ra

    Để xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý của người gây thương tích, bạn cần trình báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật với cảnh sát hoặc cơ quan điều tra nước sở tại tại xảy ra hành vi phạm tội. Nội dung của đơn trình báo, tố giác bao gồm các nội dung cơ bản như: Họ và tên người trình báo, ngày tháng năm sinh, số Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu thường trú, nội dung chi tiết vụ việc. Ngoài ra có thể gửi kèm theo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật. Qua đó cơ quan cảnh sát nước sở tại có cơ sở để áp dụng các thủ tục pháp lý cần thiết như điều tra để xác minh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật; trưng cầu giám định tư pháp để xác định mức độ thiệt hại đối với cơ thể do hành vi gây thương tích gây ra. Tuy nhiên, bạn là người đang sống bất hợp pháp tại hàn quốc thì phải xem xét lại việc có nên tố cáo hay không và hậu quả của việc tố cáo xong thì bạn có bị trục xuất hay vẫn ở lại nước sở tại nhé.

  • Xem thêm     

    30/05/2020, 06:40:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định của pháp luật hình sự, các công dân khi thực hiện các hành vi vi phạm các tội danh được quy định tại Bộ luật hình sự và đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, phát hiện tội phạm không phải bất cứ hành vi phạm tội nào đều được phát hiện ngay sau khi vi phạm. Các nhà làm luật Việt Nam cho phép một khoảng thời gian để cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can gọi là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau:

    Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

    b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

    c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

    d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

    Như vậy, đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm. Do đó, mặc dù sự việc đã qua được một năm nhưng để đảm bảo được quyền lợi của mình cũng như cảm thấy chiếc xe máy có ý nghĩa quan trọng đối với bạn cùng với mong muốn tìm lại được nó thì bạn vẫn có thể làm đơn trình báo sự việc tới cơ quan công an phường quản lý trên địa bàn hoạt động của họ để yêu cầu giải quyết.

    Đối với tội trộm cắp tài sản, nếu tìm được thủ phạm, người đó sẽ phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh trôm cắp tài sản quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

25 Trang «<3456789>»