Chào bạn!
Tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đó phải là những tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân...
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng, tặng cho riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Theo bạn trình bày thì tài sản này được cấp đứng tên trong thời kỳ hôn nhân mà bản thân bạn cũng không xách định được là tài sản này có phải do những lao động hợp pháp của vợ chồng bạn tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hay không? hay chỉ ngẫu nhiên được cấp vào ngày mà lúc đó vợ chồng bạn đã kết hôn còn nguồn gốc thì lại do chồng bạn mua từ trước bằng tài sản riêng của anh ta.
Pháp luật về dân sự cũng quy định là tài sản có đăng ký sở hữu chỉ thuộc quyền của chủ sở hữu khi đã được đăng ký và Quyền sử dụng đất là một tài sản có đăng ký, tuy nhiên đây là trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp và chỉ làm biến động nhà đất sang tên cho người khác, còn trường hợp của bạn là nguồn gốc hình thành tài sản là trước khi có đăng ký kết hôn.
Về mặt hành chính: Khi bạn đi giao dịch các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cơ quan Công chứng mặc nhiên sẽ coi đây là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký xác nhận, cùng thỏa thuận và quyết định vì ngày được cấp sổ đỏ nằm trong thời kỳ hôn nhân.
Về mặt bản chất và khi có tranh chấp: Chồng bạn sẽ chứng minh được đây là tài sản riêng của anh ta vì:
- Các hợp đồng mua bán, giao dịch xảy ra trước thời kỳ hôn nhân;
- Đồng tiền và nguồn tiền trả cho việc mua bán này;
- Thời gian và quy trình cấp sổ;
- Việc triển khai thực hiện việc đề nghị cấp sổ đỏ hoặc đề nghị sang tên nhà đất.
Việc giải quyết tranh chấp ở tòa án còn phụ thuộc vào chứng cứ do các bên xuất trình và chứng minh cho yêu cầu của mình.
Chúc bạn có quyết định đúng đắn
Luật sư Ngô Thế Thêm