Tư Vấn Của Luật Sư: Ngô Thế Thêm - luatsungothethem

9 Trang «<789
  • Xem thêm     

    26/07/2013, 03:34:40 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Chị bạn hoàn toàn có thể xin lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo Quy định của Nghị định 108, chị bạn nên làm đơn đề nghị và trình bày về sự việc, đề nghị UBND xã nơi trước đây cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân xác minh tình trạng hôn nhân và cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân mới. Chị bạn phải cam kết và hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc trình bày của mình.

    Theo luật Hôn nhân và gia đình chị bạn chưa đăng ký kết hôn nên pháp luật không công nhận là vợ chồng do đó không phát sinh việc ly hôn nên không cần ra tòa.

    Nếu cần xác định cha cho con thì chị bạn có thể làm đơn đề nghị Tòa án xác định cha cho con theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự.

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    20/07/2013, 09:53:30 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại Điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn thì:

    1. Sau khi ly hôn thì vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con....

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau ki ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì tòa quyết định giao co cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con từ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Do đó, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con tòa án sẽ quyết định giao con cho ai nuôi nếu vợ chồng không tự thỏa thuận được với nhau, quyền lợi gồm:

    - Về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày;

    - Về học hành;

    - Về môi trường sống,

    - Về kinh tế;

    - Về nhà ở;

    - Về tình cảm và cuộc sống hiện tại của con.

    Nhìn chung là những điều tốt đẹp nhất cho con, vì đây chỉ là vì quyền lợi của con.

    Bạn có thể đối chiếu với hoàn cảnh của mình.

    Thân ái!

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    18/07/2013, 07:51:55 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Theo nội dung bạn trình bày thi Cha bạn là người đại diện cho các đồng sử dụng chung của mảnh đất, nên cha bạn định đoạt toàn bộ mảnh đất này là không được, tuy nhiên Cha bạn có thể định đoạt toàn bộ phần quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của Cha bạn theo hình thức lập di chúc.

    Việc cha bạn đề lại phần tài sản có chung với các đồng sử dụng khác dưới hình thức là Di chúc mà Phòng công chứng không làm bạn có thể khiếu nại đến Sở Tư pháp nơi cấp giấy phép hoạt động cho phòng công chứng đó để bảo vệ quyền lợi của mình.

    Theo quy định tại Điều 646 Bộ luật Dân sự thì Di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

    Theo quy định tại ĐIều 634 Bộ luật Dân sự thì Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết có trong tài sản chung với người khác.

    Do đó có thể thấy Cha bạn hoàn toàn có thể lập Di chúc để lại di sản của mình

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 08:56:49 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Về vấn đề của bạn, tôi làm rõ các tình tiết cụ thể sau:

    1. Bố mẹ bạn thường xuyên hay lục đục, không hòa thuận;

    2. Bố bạn yêu cầu mẹ bạn phải giao CMND nhưng khôn nói rõ về mục đích sử dụng.

    3. Phát hiện có Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và giấy biên nhận tiền

    4. Bố bạn có thể ký giống chữ ký của mẹ bạn

    5. Ban thấy có trường hợp chồng dùng chữ ký của vợ đi vay tiền song vợ bị đi tù con chồng vẫn ung dung ở ngoài

    Bạn hỏi:

    1 Trường hợp nhà bạn có giống thể không? Nếu đúng thì sao?

    Trường hợp nhà bạn có giống thế không? là giống thế nào? ai là người vay tiền? ai sử dụng tiền? giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là của ai? bạn không cung cấp rõ thì không thể biết cụ thể được?

    Tài sản nhà đất này của ai? tại sao phải làm giấy xác nhận tình trạng hôn nhân?

    Giả sử như bạn hiểu có nghĩa là bố bạn làm giả giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để chứng minh bố bạn đang thuộc tình trạng hôn nhân là chưa đăng ký kết hôn để làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất. Sau đó bố bạn vay tiền người ta và họ buộc bố bạn phải sang tên nhà đất? hay giả chữ ký của mẹ bạn để đi vay tiền (mới có chuyện không trả được thì đi tù thay)...

    Nhìn chung bạn phải làm rõ những vấn đề trên đã, sau đó chúng tôi mới tư vấn cho bạn được.

    Hẹn gặp lại bạn.

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    16/07/2013, 12:37:05 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam quan tâm và chú trọng xây dựng tình cảm gia đình, quan hệ nuôi dưỡng và gắn bó, vấn đề tài sản cũng được quy định theo hướng xác định các nguồn tài sản là tài sản chung, tài sản riêng chỉ được xác định theo một số nguồn nhất định, cụ thể:

    Tài sản riêng được hình thành từ các nguồn sau:

    1 Tài sản có trước thời kỳ hôn nhân;

    2. Tài sản có sau thời kỳ hôn nhân:

    3. Tài sản có trong thời kỳ hôn nhận phải được:

    3.1. Tặng cho riêng;

    3.2. Thừa kế riêng:

    3.3 Vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng.

    Việc bạn xác định tài sản của mẹ bạn là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thì bạn xác định theo các nguồn như tôi trích dẫn ở trên và phải chứng minh được điều đó, chứ không phải như bạn nghĩ đương nhiên nó là tài sản riêng hay đứng tên mẹ bạn nên đó là tài sản riêng đâu.

    Nếu đã là tài sản chung của vợ chồng (mặc dù giấy tờ ghi tên 1 người) thì khi quyết định và định đoạt tài sản chung theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 phải được các đồng sở hữu và sử dụng chung đồng ý.

    Bạn nên xem xét lại các tài liệu và nếu cần thì liên hệ với Luật sư Luật Doanh Gia tại www.luatdoanhgia.vn để được tư vấn cụ thể hơn.

    Chúc bạn thành công!

    Luật sư Ngô Thế Thêm

     

  • Xem thêm     

    11/07/2013, 05:46:50 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đó phải là những tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân...

    Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng, tặng cho riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

    Theo bạn trình bày thì tài sản này được cấp đứng tên trong thời kỳ hôn nhân mà bản thân bạn cũng không xách định được là tài sản này có phải do những lao động hợp pháp của vợ chồng bạn tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hay không? hay chỉ ngẫu nhiên được cấp vào ngày mà lúc đó vợ chồng bạn đã kết hôn còn nguồn gốc thì lại do chồng bạn mua từ trước bằng tài sản riêng của anh ta.

    Pháp luật về dân sự cũng quy định là tài sản có đăng ký sở hữu chỉ thuộc quyền của chủ sở hữu khi đã được đăng ký và Quyền sử dụng đất là một tài sản có đăng ký, tuy nhiên đây là trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp và chỉ làm biến động nhà đất sang tên cho người khác, còn trường hợp của bạn là nguồn gốc hình thành tài sản là trước khi có đăng ký kết hôn.

    Về mặt hành chính: Khi bạn đi giao dịch các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cơ quan Công chứng mặc nhiên sẽ coi đây là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký xác nhận, cùng thỏa thuận và quyết định vì ngày được cấp sổ đỏ nằm trong thời kỳ hôn nhân.

    Về mặt bản chất và khi có tranh chấp: Chồng bạn sẽ chứng minh được đây là tài sản riêng của anh ta vì:

    - Các hợp đồng mua bán, giao dịch xảy ra trước thời kỳ hôn nhân;

    - Đồng tiền và nguồn tiền trả cho việc mua bán này;

    - Thời gian và quy trình cấp sổ;

    - Việc triển khai thực hiện việc đề nghị cấp sổ đỏ hoặc đề nghị sang tên nhà đất.

    Việc giải quyết tranh chấp ở tòa án còn phụ thuộc vào chứng cứ do các bên xuất trình và chứng minh cho yêu cầu của mình.

    Chúc bạn có quyết định đúng đắn

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    08/07/2013, 04:56:24 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Luật sư Luật Doanh Gia tư vấn trường hợp của bác như sau:

    1. Yêu cầu và nguyện vọng của các bác về lập Di chúc hoàn toàn thực hiện được, tuy nhiên các bác chỉ cần điều chỉnh một chút cho phù hợp, cụ thể như sau:

    Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự thì Di chúc lập thành văn bản bao gồm:

    • Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
    • Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
    • Di chúc bằng văn bản có công chứng;
    • Di chúc bằng văn bàn có chứng thực.

    Do đó các bác có quyền lập di chúc bằng văn bản mà không cần có người làm chứng, không cần công chứng và chứng thực vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên khi lập Di chúc bằng văn bản thì phải chú ý những điểm sau:

    Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về nội dung của di chúc bằng văn bản:

    • Di chúc phải ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập Di chúc, Họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc, họ tên người được nhận di sản, di sản để lại, nơi có di sản…
    • Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

    Tại Điều 655 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:

    • Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc;
    • Nội dung phải đúng quy định tại Điều 653 của Bộ luật Dân sự.

    Như vậy, các bác hoàn toàn có quyền lập di chúc bằng văn bản do tự tay mình viết theo các nội dung văn bản pháp luật nêu trên.

    1. Về di chúc chung của vợ chồng

    Theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự thì vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản.

    Theo điều 688 Bộ luật Dân sự thì Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng thì: Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

    Do đó, theo tôi trường hợp này các bác nên mỗi người nên lập một Di chúc và định đoạt tài sản cho nhau thì tốt hơn và đạt được mục đích là người nào mất trước thì người còn sống sẽ được hưởng di sản, nếu lập di chúc chung thì bị hạn chế là chỉ khi nào người sau cùng chết di chúc mới có hiệu lực.

    1. Đề thuận tiện cho người nhận di sản các bác có thể đến các tổ chức hành nghề công chứng (Phòng/Văn phòng công chứng) để lập di chúc.

    Chúc các bác mạnh khỏe và thực hiện được ý nguyện của mình, bác có thể liên hệ www.luatdoanhgia.vn để được tư vấn cụ thể và chi tiết hơn về trường hợp của bác.

    Luật sư Ngô Thế Thêm

  • Xem thêm     

    21/06/2013, 11:32:01 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    luatsungothethem
    luatsungothethem
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:22/07/2009
    Tổng số bài viết (2011)
    Số điểm: 13068
    Cảm ơn: 11
    Được cảm ơn 778 lần


    Chào bạn!

    Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì tài sản riêng sẽ được hình thành từ các nguồn sau:

    1. Tài sản có trước thời kỳ hôn nhân;

    2. Tài sản có sau thời kỳ hôn nhân;

    3. Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng và được thỏa thuận là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân.

    Cũng theo Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản chung là những nguồn thu nhập, lao động hợp pháp..

    Trường hợp của em bạn là tài sản được tặng cho chung nên đó phải là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất, không thể xác định được phần nào của vợ, phần nào của chồng và khi có tranh chấp, phân chia tài sản thì Tòa án sẽ xem xét đến công sức đóng góp và duy trì tài sản của từng người để chia cho hợp lý.

    Trong trường hợp của em bạn là được tặng cho chung nên công sức của 02 người là như nhau và theo suy đoán thì vợ, chồng sẽ được hưởng phần bằng nhau.

    Chúc bạn thành công!

    Luật sư Ngô Thế Thêm - 090.474.9996

    Văn phòng Luật sư Doanh Gia - www.luatdoanhgia.vn

9 Trang «<789