Chào bạn!
Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
Điều 1, Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996) quy định: Vũ khí nói chung bao gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.
Trong đó, điểm d khoản 1, Điều 1 quy định cụ thể vũ khí thô sơ như sau:
d) Vũ khí thô sơ gồm: dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ quy định.
Điều 5 quy chế này quy định:
1. Tổ chức, cá nhân không thuộc diện được trang bị, giao giữ, sử dụng các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ nếu đang có không kể do nguồn gốc nào, đều phải kê khai và nộp tại cơ quan công an hoặc cơ quan quân sự các cấp.
2. Công dân có nghĩa vụ phát hiện và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền các trường hợp sản xuất, sửa chữa, vận chuyển, tàng trữ, mua bán, sử dụng các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trái phép. Mọi trường hợp thu nhặt được vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đều phải nộp cho cơ quan công an hoặc quân sự địa phương, tuỳ trường hợp cụ thể sẽ được khen thưởng theo quy định.
Điểm c khoản 2, Điều 13 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
c) Không giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định;
Hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật theo quy định tại điểm a khoản 8 điều này.
Như vậy, nếu bình thường phát hiện công dân có mang theo người vũ khí thô sơ là có thể bị xử phạt hành chính. Còn trường hợp của bạn bạn là sử dụng trong tập luyện thể thao nên có thể sẽ không bị xử lý. Nếu không đồng ý với quyết định hành chính đó của Công an thì anh bạn đó có quyền khiếu kiện theo quy định pháp luật.