Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

65 Trang «<13141516171819>»
  • Xem thêm     

    15/11/2014, 03:58:26 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc như bạn nói chỉ là tranh chấp quyền nuôi con sau khi ly hôn. Với thông tin anh ta đưa ra đúng một phần nên không được cho là vu khống và sẽ không bị xử lý về hành vi vu khống. Việc giành quyền nuôi con của anh ta sẽ không được tòa án chấp nhận nếu yêu cầu và chứng cứ của anh ấy đưa ra là không có căn cứ pháp lý.

  • Xem thêm     

    15/11/2014, 03:51:12 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Với hành vi cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng... thì sẽ bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy thuộc vào hậu quả xảy ra. Khi có nguy cơ xảy ra sự việc như trên thì bạn cần có đơn trình báo toàn bộ sự việc với công an địa phương để được can thiệp kịp thời và xử lý các đối tượng gây rối...

  • Xem thêm     

    15/11/2014, 11:45:45 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo quy định pháp luật thì bên vay tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản cho bên cho vay khi hết thời hạn vay. Nếu vợ bạn vay tài sản để sử dụng vào mục đích cá nhân thì đó là khoản nợ riêng của vợ bạn, chỉ mình vợ bạn có nghĩa vụ trả nợ.

    Nếu một mình vợ bạn đứng ra vay nợ nhưng số tiền đó bạn cũng sử dụng chung hoặc sử dụng vào mục đích thiết yếu, tối thiểu của gia đình thì bạn cũng liên đới chịu trách nhiệm với khoản nợ đó hoặc là khoản nợ riêng của vợ bạn nhưng bạn cam kết trả nợ thay hoặc cam kết cùng chịu trách nhiệm trả nợ thì bạn mới phải liên đới chịu trách nhiệm với khoản nợ đó.

  • Xem thêm     

    15/11/2014, 08:55:52 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp trả lời bạn như sau:

    1. Vụ việc của bạn chỉ là quan hệ dân sự, chưa có dấu hiệu tội phạm. Nếu bạn không trả được nợ đúng hạn hoặc mất khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ khởi kiện bạn tới tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tòa án sẽ tuyên bản án buộc bạn phải thanh toán khoản nợ đó. Nếu sau khi tòa án xét xử mà bạn vẫn không chấp hành bản án thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Nếu bạn không có tài sản riêng để thi hành thì khi nào bạn có tài sản, thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành kê biên, phong tòa tài sản... để thu hồi số tiền còn nợ theo bản án cho ngân hàng.

    2. Nếu bạn bỏ trốn hoặc sử dụng số tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng hoàn trả khoản nợ đó thì bạn mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu bạn không có mục đích chiếm đoạt số tiền đó, mà chỉ khó khăn chưa trả được nợ thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự như đã nói ở trên. Tuy nhiên, về nguyên tắc thì có vay, có trả, bạn nợ ngân hàng thì cũng phải tìm phương án trả nợ và có những thỏa thuận hợp lý mà bên cho vay có thể chấp nhận được để tránh mâu thuẫn, tranh chấp căng thẳng có thể xảy ra...

  • Xem thêm     

    15/11/2014, 07:40:46 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ kiện của dì bạn là kiện đòi tài sản. Tòa án sẽ ra bản án tuyên buộc gia đình bạn phải trả toàn bộ nợ lãi và gốc. Nếu sau đó gia đình bạn không tự nguyện chấp hành thì dì bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế để lấy tài sản của gia đình bạn phát mại trả cho dì bạn.

    Theo quy định pháp luật thì trong quá trình tòa án giải quyết và trong quá trình thi hành án, hai bên vẫn có thể thỏa thuận với nhau về việc trả khoản nợ đó. Việc trả dần và kéo dài thời gian trả nợ chỉ được thực hiện nếu dì bạn đồng ý.

  • Xem thêm     

    15/11/2014, 07:32:23 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì sau khi khiểm tra, xác minh, giám định tài sản là vật chứng vụ án thì cơ quan điều tra sẽ trả lại tài sản cho chủ sở hữu nhưng luật không quy định cụ thể thời điểm nào phải trả lại nên vấn đề này hay bị lạm quyền. Nếu mọi thủ tục đã được thực hiện, không còn gì tranh cãi với vật chứng đó mà cơ quan điều tra vẫn không trả lại tài sản cho bạn thì bạn có thẻ gửi đơn tới thủ trưởng cơ quan điều tra và viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp để được xem xét giải quyết.

  • Xem thêm     

    14/11/2014, 09:29:32 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Cướp tài sản: Với sự việc mẹ bạn bị cướp tài sản thì cần có đơn trình báo toàn bộ sự việc bị cướp đó tới công an để được xem xét giải quyết. Nếu có căn cứ xác định vụ việc mẹ bạn trình bày là đúng sự thật thì công an sẽ khởi tố vụ án và giải quyết theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự về tội cướp tài sản.

    2. Vay nợ: Theo quy định pháp luật thì việc vay mượn tiền là quan hệ dân sự, được điều chỉnh bởi các quy định của luật dân sự (Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành). Nếu có tranh chấp về hợp đồng vay tiền thì các bên có thể gửi đơn tới Tòa án nơi bị đơn cư trú để được xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

    Vay mượn tài sản là giao dịch tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh... Nếu bên vay tiền mất khả năng trả nợ thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản thế chấp, tài sản cầm cố ... hoặc yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay.

    Nếu bên vay và bên cho vay có tình cảm đặc biệt, có niềm tin đến mức không cần phải thế chấp thì bên cho vay phải chịu rủi ro trong trường hợp bên vay tiền mất khả năng thanh toán.

    Trong trường hợp bên vay tiền không có tài sản thế chấp mất khả năng thanh toán thì bên cho vay gần như không còn cơ hội lấy lại tài sản. Nếu bên cho vay khởi kiện tới tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thì tòa án cũng chỉ tuyên một bản án dân sự là buộc bên vay tiền phải trả nợ đối với khoản vay theo thỏa thuận của các bên. Nếu bên vay tiền không tự nguyện chấp hành bản án đó thì bên cho vay tiền có quyền yêu  cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành án bằng cách kê biên tài sản của bên vay tiền để phát mại lấy tiền trả cho bên cho vay... nếu khi đó bên cho vay không còn tài sản nào có thể xử lý để thi hành án thì cơ quan thi hành án cũng "đành chịu" như vậy thì bên cho vay chịu rủi ro với khoản nợ đó.

    3. Hình sự: Việc vay nợ chỉ chuyển thành quan hệ hình sự - Người vay tiền bị "bỏ tù" nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    + Cơ quan công an có đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh là người vay tiền không phải là có ý định vay mượn thật mà chỉ là thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin, tài liệu không đúng sự thật, không có thật làm cho nạn nhân hiểu lầm mà giao tài sản, sau khi nhận được tài sản của nạn nhân thì không có ý định trả lại tài sản (chiếm đoạt); Trong trường hợp này người chiếm đoạt số tiền đó sẽ bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS;

    + Sau khi nhận được tiền vay bằng quan hệ dân sự (vay, mượn hợp, gửi giữ...) pháp thì dùng thông tin gian dối, thủ đoạn gian đối để chiếm đoạt tài sản, không có ý định trả lại tài sản thì sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 140 BLHS;

    + Sau khi nhận được tiền vay bằng quan hệ dân sự vay mượn hợp pháp thì bỏ trốn (công an khu vực, bố mẹ, chồng, vợ, anh chị em ruột...không ai biết ở đâu) nhằm chiếm đoạt tài sản, không có ý định trả lại tài sản thì sẽ bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự;

    + Sau khi nhận được tiền vay bằng quan hệ dân sự hợp pháp thì sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì sẽ bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

    Những trường hợp này sẽ bị xử lý theo thủ tục tố tụng dân sự: Khởi tố,  Điều tra - truy tố - Xét xử. 

    Trường hợp của mẹ bạn như đã nêu ở trên là quan hệ dân sự, chưa thấy có dấu hiệu tội phạm hình sự. Nếu mẹ bạn không gian dối, không bỏ trốn, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp thì bên cho vay tiền chỉ có thể khởi kiện mẹ bạn đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    13/11/2014, 04:35:48 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào ban!
    Nếu quán net đó có người trông xe dù là miễn phí thì quán đó phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bạn. Nếu vụ việc không thể thương lượng được thì bạn có thể làm đơn trình báo sự việc mất trộm với công an đồng thởi khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu chủ quán net đó phải bồi thường thiệt hại...

  • Xem thêm     

    09/11/2014, 08:30:55 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu mục đích mượn xe là để sử dụng nhưng lại mang đi cầm cố rồi bỏ trốn thì hành vi này cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Nếu cơ quan công an ra quyết định không khởi tố vụ án thì bạn có thể khiếu nại quyết định đó theo quy định pháp luật. 

  • Xem thêm     

    06/11/2014, 03:08:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Các thông tin ghi trong chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy khai sinh mà có mục là "nguyên quán" hoặc "quê quán" thì thông tin được lấy từ cha của người đó (quê gốc). Những từ đó theo cách hiểu hiện nay là gốc tích sinh sống của cha ông trước đây. Nếu trong giấy tờ của cha bạn thể hiện nguyên quán là Campuchia thì trong giấy tờ của bạn cũng sẽ ghi như vậy, mặc dù bạn sinh ở Việt Nam. 

  • Xem thêm     

    29/10/2014, 10:56:32 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Hành vi nhận tiền để xin việc là pháp luật không cho phép. Nếu  cơ quan tiến hành tố tụng nhận định là việc đó cả hai bên đều biết là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện thì sẽ không xem xét trách nhiệm hình sự, bên giao tiền có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi tiền - Không có thủ đoạn gian dối.

    Nếu bên nhận tiền đưa ra thông tin gian dối làm cho người giao tiền hiểu lầm, hiểu sai mà giao tiền thì mới cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. \

    Nếu hai bên thỏa thuận với nhau cùng mang một khoản tiền đến giao cho người có chức vụ quyền hạn để làm việc trái pháp luật, sai lệch hồ sơ tuyển dụng, kết quả tuyển dụng thì cả hai đều bị khởi tố về tội đưa, nhận hối lộ.

    Nếu các bên không thể giải quyết được với nhau thì có thể gửi đơn tới công an hoặc tòa án để được giải quyết theo pháp luật,

  • Xem thêm     

    29/10/2014, 10:26:42 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Sự việc bạn nêu là quan hệ dân sự,. Bạn đồng ý cho mượn tiền, đồng ý cho mượn xe để mang đi cầm cố...do vậy các giao dịch đó là dân sự. Nếu người vay tiền của bạn bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì vụ việc mới cấu thành tội phạm. Với sự kiện như bạn đã nêu thì bạn có thể gửi đơn tới tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    27/10/2014, 05:28:47 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Bộ luật dân sự quy định: "Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng" (khoản 1, Điều 476). Do vậy, nếu mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận vượt quá quy định nêu trên là "nặng lãi".

    2. Điều 163 Bộ luật hình sự quy định về tội cho vay nặng lãi như sau: "Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm"...

    Như vậy, nếu mức lãi suất cho vay vượt quá 10 lần mức lãi suất cao nhất mà nhà nước quy định và có tính chất chuyên bóc lột thì mới bị xử lý hình sự.

    3. Trong vụ việc trên nếu có dấu hiệu cưỡng đoạt tài sản (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để đòi tiền) thì bạn có thể trình báo sự việc trên với công an để giải quyết. Bạn cũng có thể gửi đơn tới công an để tố cáo hành vi cho vay nặng lãi. Nếu sau khi xem xét có đủ dấu hiệu cấu thành tội cho vay nặng lãi như đã nêu ở trên thì công an sẽ khởi tố và xử lý đối tượng cho vay theo quy định pháp luật.

    4. Nếu vụ việc được công an kết luận là chưa cấu thành tội phạm thì bạn có thể khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản đến tòa án để tòa án tuyên bố về việc bạn không phải trả tiền lãi trái pháp luật. Bạn cần chuẩn bị các chứng cứ về mức lãi suất, việc trả lãi và những chứng cứ về việc ép buộc trả nợ... làm căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

  • Xem thêm     

    24/10/2014, 01:57:13 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Trong vụ việc tai nạn giao thông thì hai vấn đề sẽ được đặt ra là trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, cụ thể như sau:

               1. Trách nhiệm hình sự: Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh nếu người gây tai nạn đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi và gây hậu quả nghiêm trọng theo hướng dẫn tại Thông tư số 09/2013/TTLT- BQP-BCA-BTP-TANDTC-VKSNDTC.

    Trong vụ việc của bạn, nếu thương tích của nạn nhân từ 31% trở lên và bạn có lỗi thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

               2. Trách nhiệm dân sự: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây tai nạn có lỗi và cả khi không có lỗi. Việc bồi thường sẽ theo quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây nên. Mức bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại thực tế phát sinh và khả năng của người gây thiệt hại, bao gồm: Tiền chi phí cứu chữa, phục hồi chức năng; tiền công người chăm sóc; tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút; tiền tổn thất tinh thần.

    Nếu lỗi hoàn toàn thuộc về nạn nhân thì người lái xe không phải bồi thường. Bạn nếu bạn đi đúng phần đường, đúng làn đường, đúng tốc độ thì bạn không có lỗi. Bạn cần xem lại tuyến đường đó có quy định phần đường dành cho xe ô tô, xe máy riêng biệt không. Nếu bạn đi quá tốc độ, thiếu quan sát hoặc đi vào phần đường của xe ô tô ... mà gây tai nạn thì bạn có lỗi và phải bồi thường thiệt hại.

  • Xem thêm     

    24/10/2014, 11:59:51 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ chứng minh là bạn có một cái máy tính như thế (hóa đơn mua bán, người làm chứng...) và chứng cứ về việc cho mượn.

    Nếu bạn không có tài liệu, chứng cứ nào thì công an không tin là chuyện có thật. Nếu có manh mối và gặp được người kia thì mới có thể đấu tranh để họ nhận tội. Nếu không liên hệ được với họ thì phải có đủ căn cứ, chắc chắn chứng minh là sự việc bạn trình bày là thật thì có thể công an vẫn khởi tố, truy nã về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

  • Xem thêm     

    23/10/2014, 05:18:57 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về trình tự khiếu nại như sau:

    1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    2. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. 

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần 2 đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Bên cạnh đó Điều 8 Luật Khiếu nại có quy định về các hình thức khiếu nại, cụ thể như sau:

    1. Việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp.

    2. Trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và yêu cầu giải quyết của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.

    3. Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì người tiếp nhận khiếu nại hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại hoặc người tiếp nhận ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản và yêu cầu người khiếu nại ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này.

    4. Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì thực hiện như sau:

    a) Trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này. Việc tiếp nhiều người cùng khiếu nại thực hiện theo quy định tại Chương V của Luật Khiếu nại năm 2011;

    b) Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ nội dung quy định tại khoản 2 Điều này, có chữ ký của những người khiếu nại và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết khiếu nại;

    c) Chính phủ quy định chi tiết khoản này.

    5. Trường hợp khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải là một trong những người khiếu nại, có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011.

    Mặt khác, Điều 9 Luật Khiếu nại năm 2011 có quy định về thời hiệu khiếu nại như sau:

    Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.

    Như vậy, qua 3 điều luật nói trên. Khi có căn cứ cho rằng Quyết định của Ủy ban nhân dân phường không cho người dân ở đây để chậu kiểng lên phần phía trước nhà là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân thì trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, người khiếu nại làm đơn theo mẫu thống nhất khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại mà chính là các bác không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

    Nếu quyết định hành chính không còn thời hiệu khiếu nại theo quy định trên thì sẽ không được xem xét giải quyết. Với những nhà đất đã bị nhà nước quản lý theo chính sách trước đây thì nay sẽ không được xem xét lại.

  • Xem thêm     

    21/10/2014, 07:08:46 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu người nào phá hỏng, hủy hoại tài sản của người khác trị giá từ 2 triệu đồng trở lên thì bị khởi tố theo quy định tại Điều 143 BLHS. Vì vậy, sau khi có kết quả giải quyết về tài sản của tòa án thì cơ quan điều tra có thể khởi tố người nào phá hoại tài sản của người khác theo quy định trên.

  • Xem thêm     

    18/10/2014, 09:18:48 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể yên tâm về chuyện đó bởi theo quy định pháp luật thì phải có chứng cứ chứng minh bạn tham gia giao dịch dân sự thì bạn mới phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với giao dịch đó. Nếu chỉ có giấy tờ tùy thân mà không có chữ ký của bạn thì không có căn cứ để xác định bạn đã tham gia giao dịch mua bán, chuyển nhượng, vay mượn...

  • Xem thêm     

    17/10/2014, 10:56:15 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 20 Luật Cư trú quy định về điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương như sau: Công dân thuộc một trong những trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương:

    - Có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản;

    - Đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà ở do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở của mình phải ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, ký, ghi rõ họ, tên và ngày, tháng, năm (trường hợp trong văn bản cho thuê, mượn, ở nhờ đã nêu rõ nội dung đồng ý cho đăng ký thường trú vào nhà thuê, mượn, ở nhờ thì không cần ý kiến của chủ động vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu).

    Hồ sơ đăng ký thường trú, bao gồm:

    a) Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu;

    b) Bản khai nhân khẩu;

    c) Giấy chuyển hộ khẩu (đối với các trường hợp phải cấp giấy chuyển hộ khẩu quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Cư trú);

    d) Giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 107/2007/NĐ-CP, trừ trường hợp được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình.

    - Đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà ở do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở của mình phải ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, ký, ghi rõ họ, tên và ngày, tháng, năm (trường hợp trong văn bản cho thuê, mượn, ở nhờ đã nêu rõ nội dung đồng ý cho đăng ký thường trú vào nhà thuê, mượn, ở nhờ thì không cần ý kiến của chủ động vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu).

    - Đối với chỗ ở là nhà ở do thuê, mượn hoặc ở nhờ tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì diện tích cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ phải ghi rõ trong hợp đồng, bảo đảm diện tích tối thiểu là 5m2 sàn/01người. Diện tích sàn được hiểu và thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở.

    - Đối với trường hợp có quan hệ gia đình là ông, bà nội, ông, bà ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh, chị, em ruột, cháu ruột quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật Cư trú chuyển đến ở với nhau thì không cần xuất trình giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp nhưng phải xuất trình giấy tờ chứng minh hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây viết gọn là Ủy ban nhân dân cấp xã) về mối quan hệ nêu trên.

  • Xem thêm     

    16/10/2014, 05:04:34 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu lái xe hoàn toàn không có lỗi thì không phải bồi thường. Nếu lái xe cũng có một phần lỗi hoặc tai nạn xảy ra do nguyên nhân khách quan, không do lỗi của bên nào thì bố bạn mới được bồi thường theo quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

65 Trang «<13141516171819>»