Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    16/03/2012, 10:34:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu không còn khả năng đóng hụi cũng không phải là căn cứ xác định tội phạm.
  • Xem thêm     

    16/03/2012, 10:32:41 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                 Căn cứ pháp lý để cho ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 18, 19, 23 và Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình; Hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của TAND tối cao: Nếu một người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ chồng không còn tình nghĩa vợ chồng, không yêu thương, chăm sóc nhau, không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ... nên tình trang hôn nhân được xác định là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được => Đủ điều kiện để ly hôn.
                Bạn có thể tham khảo các quy định cụ thể sau đây:

    Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng

    Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

    Điều 19. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng

    Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình.

    Điều 23. Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt

    Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người.

    Điều 89. Căn cứ cho ly hôn

    1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu  xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

              Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn cụ thể như sau:
    "Căn cứ cho ly hôn (Điều 89)

    a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.

    a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

    - Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

    a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

    a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.".

  • Xem thêm     

    16/03/2012, 01:42:39 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
            1. Nếu người đã thành niên mà giao cấu với cô bé dưới 13 tuổi thì sẽ phạm tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại Điều 112 BLHS, cụ thể như sau:

               "Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em

    1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
      a) Có tính chất loạn luân;
      b) Làm nạn nhân có thai;
      c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
      d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
      đ) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
      a) Có tổ chức;
      b) Nhiều người hiếp một người;
      c) Phạm tội nhiều lần;
      d) Đối với nhiều người;
      đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
      e) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
      g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
    4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ mười ba tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."
             2. Nếu người từ đủ 14 tuổi mà giao cấu với người từ đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi thuộc trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (khung hình phạt trên 15 năm tù) thì có thể phạm tội hiếp dâm trẻ em (nếu thuộc khoản 2, 3 Điều 112 BLHS) hoặc phạm tội cưỡng dâm trẻ em theo (nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 114 BLHS. Bạn có thể tham khảo thêm quy định tại khoản 3, Điều 8 và Điều 12 BLHS sau đây:

             "Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

               Khoản 3, Điều 8. Khái niệm tội phạm
    Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình."

             3. Người 14 tuổi không phạm tội dâm ô với trẻ em bởi theo quy định tại Điều 116 BLHS bởi đối tượng phạm tội này chỉ có thể là người đã thành niên.
  • Xem thêm     

    16/03/2012, 01:23:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn kedautinh113!
    Luật sư Tuấn đã trả lời cho bạn, tôi bổ sung như sau:
          Gia đình nạn nhân nên trình báo sự việc với công an huyện hoặc công an tỉnh nơi có hành vi cưỡng hiếp xảy ra để được xem xét giải quyết. Đơn trình báo càng trình bày chi tiết càng tốt (thời gian, địa điểm, đối tượng, hậu quả....) nếu có chứng cứ kèm theo hoặc có nhân chứng biết được thì cần trình báo, xuất trình để công an xem xét.
          Nếu trong vụ việc này không chứng minh được việc giao cấu trái ý muốn thì có thể không bị xử về tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại Điều 112 BLHS thì đối tượng cũng bị xử về tội giao cấu với trẻ em theo quy định tại Điều 115 BLHS.
          Cùng với việc trình báo sự việc, gia đình nạn nhân có thể yêu cầu cơ quan công an tiến hành trưng cầu giám định đối với em bé đó. Nếu kết quả giám định phát hiện có dấu hiệu xâm phạm tình dục thì công an sẽ khởi tố vụ án và truy tìm đối tượng.
          Bạn có thể tham khảo một số quy định pháp luật sau đây:

    Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em

    1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    A) Có tính chất loạn luân;

    B) Làm nạn nhân có thai;

    C) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    D) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    Đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    A) Có tổ chức;

    B) Nhiều người hiếp một người;

    C) Phạm tội nhiều lần;

    D) Đối với nhiều người;

    Đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%trở lên;

    E) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội;

    G) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

    4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em

    1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    A) Phạm tội nhiều lần;

    B) Đối với nhiều người;

    C) Có tính chất loạn luân;

    D) Làm nạn nhân có thai;

    Đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    A) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    B) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

  • Xem thêm     

    16/03/2012, 11:37:08 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Bạn gửi đơn xin ly hôn tới TAND huyện Bình Chánh để được xem xét giải quyết (bạn có thể gửi đơn khởi kiện và hồ sơ khởi kiện qua đường bưu điện);
                2. Hồ sơ xin ly hôn bao gồm:
    - Đơn xin ly hôn;
    - Giấy đăng ký kết hôn (bản chính);
    - CNND, Hộ khẩu (bản sao);
    - Giấy tờ về tài sản và các khoản nợ chung (nếu có)
             3. Thời gian chuẩn bị xét xử ở giai đoạn sơ thẩm là 4 đến 6 tháng. Nếu sau khi giải quyết sơ thẩm mà một trong các bên có kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm lại thụ lý để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm (thời gian khoảng 4- 6 tháng nữa). Thực tế nếu vụ việc phức tạp, đương sự không hợp tác thì vụ án có thể kéo dài vài năm mới kết thúc được.
            4. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án bắt buộc phải triệu tập các bên đến để hòa giải đoàn tụ, nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án mới mở phiên tòa để xét xử. Tòa án sẽ cho bạn được ly hôn nếu tình cảm của vợ chồng bạn lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại Điều 89 Luật HN&GĐ và Nghị quyết hướng dẫn của TAND tối cao.
             5. Án phí trong vụ án ly hôn nếu không có tranh chấp tài sản là 200.000 đồng (Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án).
  • Xem thêm     

    16/03/2012, 11:22:20 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    16/03/2012, 09:48:52 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Những nội dung luật sư nêu tại diễn đàn này là những quy định của pháp luật, còn thực tế "vận dụng" pháp luật thì có thể "mỗi nơi mỗi khác". Hiện nay có quy định về đăng ký khai sinh quá hạn nhưng không có quy định về đăng ký kết hôn quá hạn.
             Bạn có thể tham khảo các quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về Quản lý và đăng ký hộ tịch và Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ tư pháp hướng dẫn Nghị định 1582005/NĐ-CP để biết thêm chi tiết.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 10:27:37 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                   Cán bộ UBND trả lời như vậy là đúng: Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ có giá trị trong thời hạn 6 tháng. Do vây, bạn đó cần xin cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì mới thực hiện được thủ tục đăng ký kết hôn.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 10:25:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            1. Nếu là việc tranh chấp đất đai giữa gia đình chú bạn với gia đình hàng xóm thì UBND xã có thẩm quyền hòa giải. Nếu hòa giải không thành thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết (vì đất đã có GCN QSD đất). Nếu UBND xã không hòa giải  theo đúng quy định tại Điều 135 Luật đất đai thì chú bạn có quyền khiếu nại UBND đến Chủ tịch UBND xã hoặc khởi kiện hành vi không hòa giải của UBND xã đến Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính. Bạn lưu ý là UBND xã không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mà chỉ có thẩm quyền hòa giải.
            2. Việc cấp GCN QSD đất có diện tích ít hơn diện tích sử dụng thực tế hoặc ít hơn diện tích trên bản đồ thời kỳ trước đây có rất nhiều nguyên nhân. Cơ quan cấp GCN QSD đất là nơi có trách nhiệm giải trình việc này và Tòa án là nơi có quyền phán xét giải trình đó. Vụ việc của gia đình bạn phức tạp nên gia đình bạn có thể mời luật sư tham gia vụ việc để bảo vệ quyền lợi theo pháp luật.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 10:06:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, bạn cứ gửi đơn đến Công an thành phố để được xem xét giải quyết.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 10:02:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào anh!
    Luật sư rất thông cảm và xin chia sẻ cùng hoàn cảnh gia đình anh. Luật sư trả lời như sau:
             1. Vụ việc của gia đình anh trước tiên cần xem lại nguồn gốc thửa đất đó thể hiện qua hồ sơ địa chính thế nào? Là đất của ông bà anh khai phá, sử dụng, đóng thuế thì sẽ là tài sản của ông bà anh. Ông bà không để lại di chúc thì nhà đất đó sẽ thuộc về các thừa kế của ông bà (bố anh và các cô, chú bác). Nếu sổ mục kê, bản đồ các thời kỳ chỉ có tên của bố mẹ anh (không có tên ông bà anh) thì bố mẹ anh có quyền quyết định nhà đất đó.
             2. Anh cần thu thập hồ sơ xin cấp GCN QSD đất của em trai anh. Nếu việc cấp GCN QSD đất là hợp pháp thì gia đình anh không đòi lại đất được nữa, nếu việc cấp GCN QSD đất cho em anh không hợp pháp (không có thỏa thuận tặng cho, thừa kế của chủ sở hữu tài sản) thì gia đình anh mới có thể đòi đất, yêu cầu phân chia thừa kế theo quy định pháp luật.
    Anh có thể cung cấp thêm thông tin để luật sư tư vấn cụ thể hơn.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 09:13:33 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
                Nếu cha mẹ bạn đã cho bạn ngôi nhà đó, việc tặng cho hợp pháp và đã hoàn tất về thủ tục, bạn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà thì cha mẹ bạn không đòi lại được nữa. Nếu việc tặng cho không hợp pháp hoặc chưa đăng ký quyền sở hữu sang tên bạn thì cha mẹ bạn vẫn có quyền "đổi ý". Tòa án sẽ căn cứ vào nguyên tắc trên để giải quyết vụ án.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 01:05:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Pháp luật quy định mọi tổ chức, cá nhân đều có nghĩa vụ phòng và chống tội phạm. Khi phát hiện có hành vi tội phạm, dấu hiệu phạm tội thì ai cũng có quyền trình báo với các cơ quan có thẩm quyền để được xem xét giải quyết. Gia đình hàng xóm bị mất của nên có quyền trình báo với công an vụ việc đó để được xem xét giải quyết. "Một mất mười ngờ" nên họ có thể nghi ngờ cho cháu bạn. Tuy nhiên, sự việc thế nào thì công an sẽ điều tra, xem xét cụ thể. Nếu đúng là cháu bạn lấy cắp thì có thể chỉ bị xử lý hành chính bởi: Người chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự với những tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. 
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 12:56:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Theo thông tin bạn nêu thì "cái đơn" đó có thể gọi là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Luật đất đai năm 1993 thì Hợp đồng đó vô hiệu cả nội dung và hình thức. Nếu đất đó là tài sản chung của cả hộ gia đình bà Tấn thì việc chuyển nhượng phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong gia đình bà Tấn và phải chứng thực sang tên theo quy định pháp luật.
            Tuy nhiên, việc chuyển nhượng là công khai, các bên đã thực hiện việc giao đất, giao tiền. Tất cả gia đình bà Tấn đều chứng kiến việc chuyển nhượng đó và không phản đối. Gia đình bạn xây nhà, trồng cây lâu năm không bị chính quyền địa phương xử phạt... thì thực tiễn xét xử, Tòa án vẫn có thể vận dụng pháp luật để công nhận hợp đồng chuyển nhượng đó.
  • Xem thêm     

    15/03/2012, 12:18:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời như sau:

               1. Điều kiện chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp

               Khoản 1 điều 106 Luật đất đai 2003 quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất… khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất”.

               Điều 102 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai (được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định 17/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/01/2006) quy định về trường hợp được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp như sau:

                “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao đất hoặc do chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác thì được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp đó cho hộ gia đình, cá nhân khác trong cùng xã, phường, thị trấn để thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

             Khoản 3, Điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ cũng quy định: “Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất như sau: Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất chuyên trồng lúa nước”.
     
              Như vậy nếu diện tích đất nông nghiệp của gia đình bạn thỏa mãn các điều kiện nêu trên thì được phép chuyển nhượng. Nếu là đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước thì bên nhận chuyển nhượng phải cùng sống trên địa phương đó và phải trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì mới đủ điều kiện nhận chuyển nhượng. Ngoài ra, nếu việc chuyển nhượng một phần thửa đất phải thực hiện thủ tục tách thửa thì bạn phải tuân thủ quy định về điều kiện tách thửa đất của địa phương.

               2. Thủ tục chuyển nhượng đất nông nghiệp

    Điều 127 Luật đất đai năm 2003 quy định về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (trong đó có đất nông nghiệp) như sau:

              “1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:

    a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

    b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

               2. Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

               Trường hợp các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho các bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính.

               Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.
               Như vậy, nếu đủ điều kiện chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng thì hai bên có thể đến Phòng, Văn phòng công chứng hoặc Ủy ban Nhân dân xã phường để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hồ sơ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp gồm có: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Chứng minh Nhân dân và hộ khẩu của các bên, giấy tờ khác (nếu có). Sau khi làm thủ tục công chứng hoặc chứng thực các bên có thể liên hệ với Văn phòng đăng ký Nhà và đất để hoàn thiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    15/03/2012, 11:56:24 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    14/03/2012, 10:19:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu chỉ là "cái đơn" thì không có giá trị pháp lý gì cả: Đơn chỉ là văn bản nêu yêu cầu của công dân... còn nếu là "Hợp đồng" - Văn bản chứa đựng thông tin về sự thỏa thuận để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên thì mới bàn đến giá trị pháp lý. Đơn thư chỉ có thể là một tình tiết, chứng cứ để chứng minh về một hành vi pháp lý trong quá khứ.
  • Xem thêm     

    14/03/2012, 09:16:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Luật sư trả lời bạn như sau:

    Ðiều 637 BLDS quy định:

    "Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

     1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

     2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.

     3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

     4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân."

     Như vậy, theo quy định tại Điều 637 BLDS năm 2005 thì các thừa kế của ông A (cha, mẹ và các con ông A) có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc với bạn. Nếu các thừa kế của ông A không thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng QSD đất với bạn thì bạn thì bạn có thể khởi kiện các thừa kế của ông A để Tòa án giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    14/03/2012, 08:54:46 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                Nếu Tòa án đã có Quyết định đình chỉ việc mua bán mà UBND vẫn sang tên hợp đồng mua bán thì việc sang tên đó là không đúng pháp luật. Theo yêu cầu của bạn, tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và kiến nghị UBND hủy giấy chứng nhận đã cấp cho bên thứ ba (người mua nhà của bà D).
               Việc bạn có thắng kiện hay không còn phụ thuộc vào chứng cứ do hai bên xuất trình. Nếu bạn thắng kiện thì bạn không phải nộp án phí.
  • Xem thêm     

    14/03/2012, 05:38:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

              " Điều 135. Hoà giải tranh chấp đất đai

    1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở.

    2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.    

    Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.

    Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.

    Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai."

           Như vậy, pháp luật quy định thời hạn hòa giải cơ sở tranh chấp đất đai là 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hòa giải. Nếu UBDN xã không thực hiện đúng pháp luật thì gia đình bạn có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND xã hoặc khởi kiện UBND xã theo thủ tục tố tụng hành chính.