SỐNG VÀ LÀM VIỆC THEO PHÁP LUẬT (49.3)
Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao không xem xét đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo đúng qui định tại điều 96 Bộ Luật Tố tụng dân sự
- 3. Công văn “trả lời đơn khiếu nại” số 247/TANDTC-KT ngày 18/11/2010 của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao không đánh giá đầy đủ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tại công văn “trả lời đơn khiếu nại” số 247/TANDTC-KT ngày 18/11/2010 (nội dung chi tiết xin xem lại bài thảo luận SvLVTP 43 - ngày 23/11/2010, trang 6 cùng chủ đề này), Ông Đặng Xuân Đào, Chánh Tòa Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu chỉ trả lời chung quanh các vấn đề sau đây:
1) 4 đơn đặt hàng và 4 hóa đơn chiếu lệ của nguyên đơn ASD nộp trong hồ sơ vụ án là chứng từ thương mại điện tử: không được các cấp Tòa án công nhận là chứng cứ (bài thảo luận SvLVTPL 45.7c).
2) Vận đơn và lệnh giao hàng của 4 lô hàng: các quy định của luật pháp thương mại quốc tế, tập quán giao dịch thương mại quốc tế không được vận dụng để xem xét các chứng cứ này (bài thảo luận SvLVTPL 47.1~3).
Các vận đơn (Bill of Lading) được lập theo điều kiện giao hàng FOB cảng đi, cước phí thu sau (bài thảo luận SvLVTPL 45.5);
và Công ty T&M Forwarding Co. Ltd. Tp. Hồ Chí Minh thu tiền cước phí các lô hàng từ người nhận hàng (Cty Bách Thắng), xác định các lô hàng được giao theo điều kiện giao hàng FOB cảng đi (bài thảo luận SvLVTPL 46.15);
nhưng Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao nhận định “theo qui định tại Điều 81 Bộ luật hàng hải Việt Nam thì vận đơn không thể thay thế, không thể là bằng chứng xác định giữa Công ty ASD với Công ty Bách Thắng, Công ty Vĩnh Thắng đã ký hợp đồng mua bán với nhau” không thực hiện việc đối chiếu với:
- quy định tại khoản 1 Điều 80, điểm i khoản 1 điều 82 Bộ luật hàng hải 1990; khoản 3 điều 4, khoản 4 và 6 điều 60, điều 64 Luật thương mại 1997;
- Điều khoản thương mại quốc tế (Incoterms 1990)
(Cty CP Bách Thắng ghi nhận việc áp dụng điều khoản này trong giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế với bên bán tại điều 1, điều 3 các hợp đồng thương mại giả mạo số 005, 006, 007, 008)
- ghi nhận tại phần XÉT THẤY, đoạn cuối trang 12 bản án sơ thẩm: “Vận đơn (B/L) có 3 chức năng: là biên lai nhận hàng để chở, là chứng từ sở hữu hàng hóa ghi trong vận đơn, là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển, chứ không phải là hợp đồng mua bán”
- chứng cứ 2 văn bản của Cty TNHH Vĩnh Thắng và Cty CP Bách Thắng gửi Công ty T&M Forwarding Co. Ltd. Tp. Hồ Chí Minh liên quan đến việc đổi tên đơn vị nhận hàng trên vận đơn gốc. Công ty T&M Forwarding Co., Tp. Hồ Chí Minh đã thực hiện việc đổi tên đơn vị nhận thàng từ Vĩnh Thắng đổi sang Bách Thắng, để Cty CP Bách Thắng nhận lô hàng thứ ba, 1.000 bo mạch chính. Hai chứng cứ này xác định người mua (người nhận hàng) đã ký hợp đồng vận tải với đơn vị vận chuyển; căn cứ điều khoản thương mại quốc tế Incoterms 1990, lô hàng đã được giao theo điều kiện giao hàng FOB cảng đi, nhưng Công ty CP Điện tử Bách Thắng đã lập hợp đồng thương mại giả mạo theo điều kiện giao hàng CIF cảng Tp. Hồ Chí Minh để nhận hàng.
- hai (02) quyết định số 640 và 641/2007/QĐ/CCCC ngày 26/10/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Tp. Hồ Chí Minh yêu cầu Ngân hàng TMCP Đông Á – chi nhánh quận 1, Tp. HCM và Cục Quản lý xuất nhập cảnh (bài thảo luận SvLVTPL 45.3, 46.13 và 46.14);
- 02 phiếu đặt hàng, 02 hóa đơn chiếu lệ, 02 hóa đơn thương mại của 2 lô hàng nhập khẩu theo điều kiện giao hàng FOB cảng đi do Cty TNHH Vĩnh Thắng – nhà phân phối sản phẩm Acer tại thị trường Việt Nam, đặt mua hàng từ Công ty Acer Computer Co. Ltd. Thái Lan trong năm 1999. (bài thảo luận SvLVTPL 45.5 và 46.16);
- Xác nhận ngày 28.09.2006 của bà Nguyễn Thu Hồng, Phó tổng biên tập tạp chí Thế giới Vi tính (PC World Vietnam) – Sở Khoa học Công nghệ và môi trường thành phố Hồ Chí Minh (bài thảo luận SvLVTPL 45.5b);
- Chi tiết thông tin giá cả thị trường sản phẩm đăng trên tạp chí Thế giới vi tính: trang 127, 128 số tháng 9/2000; trang 127, 128 số tháng 10/2000; trang 121, 122 số tháng 11/2000; trang 118, 119 số tháng 12/2000. (bài thảo luận SvLVTPL 46.11);
- Công văn số 3153/PTM-PC ngày 08/10/2007 của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. (bài thảo luận SvLVTPL 46.15);
- Văn bản xác nhận của năm (5) nhà phân phối sản phẩm Acer tại Việt Nam: văn bản ngày 27/9/2007 của Công ty CP Quốc tế MBA, Tp. Hồ Chí Minh và bốn (4) văn bản ngày 02/10/2007 của Công ty CP Thế giới số (Digiworld Corporation), Công ty TNHH TM-DV Quốc Việt (TEC Ltd.), Tp. Hồ Chí Minh, Công ty CP Lam Phương, Công ty CP Tin học và xây dựng Hạ Long, Tp. Hà Nội, (bài thảo luận SvLVTPL 45.5b và 46.16);
và xem xét thêm chứng cứ Hóa đơn thương mại của 4 lô hàng do Ngân hàng TMCP Đông Á – chi nhánh quận 1 Tp. HCM cung cấp sẽ dễ dàng xác định được các Hóa đơn thương mại do Công ty CP Điện tử Bách Thắng lập theo điều kiện giao hàng CIF cảng Tp. Hồ Chí Minh để nhận 4 lô hàng đang tranh chấp là chứng cứ giả mạo.
3) Về bàn fax ngày 13/10/2000 của ông Harry Yang (bài thảo luận SvLVTPL 45.6):
“ …bản fax này thể hiện mối quan hệ công nợ giữa Công ty Acer Thái Lan với ông Allen Weilou (*) ông Allen Weilong Lou,không liên quan đến Công ty ASD vì trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào thể hiện Công ty Acer Thái Lan đã chuyển giao công nợ của ông Allen Weilou cho Công ty ASD theo quy định tại Điều 321 Bộ luật dân sự 1995 (nay là Điều 315 Bộ luật dân sự 2005” .
Nhận định trên đây của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao khác với Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
Bản án phúc thẩm trang 9 | | Bản án sơ thẩm trang 11 |
“Công ty CP Bách Thắng … đã thanh toán đủ tiền 4 lô hàng cho ông Harry Yang” | | Đoạn đầu: “Xét theo tờ khai hải quan … bị đơn đã trực tiếp mua 4 lô hàng này với ông Harry Yang, được thể hiện bằng 4 hợp đồng mua bán, cụ thể gồm: * Hợp đồng số 005 … pháp nhân là Acer Technologies Sdn-Bhd (*) * Hợp đồng số 006 … pháp nhân là Logistron Services Pte. Ltd. * Hợp đồng số 007 … tư cách pháp nhân là ASD (**) * Hợp đồng số 008 … pháp nhân là Acer Technologies Sdn-Bhd (*) |
| | Đoạn giữa: “bản fax ngày 13/10/2000 có chữ ký của ông Harry Yang xác nhận đôi bên không còn công nợ” |
| | Đoạn cuối: “còn bản fax do ông Harry Yang ký lập ngày 13/10/2000 từ Acer Computer Việt Nam gửi Win Technology Co., Ltd. có nội dung xác định: Cty Vĩnh Thắng & Cty Bách Thắng không còn khoản nợ nào trong sổ sách kế toán của chúng tôi”. |
Ghi chú: (*) Tên pháp nhân giao hàng (shipper) ghi trên vận đơn và tên người xuất khẩu (bên bán) ghi tại mục 1 của tờ khai hàng hóa nhập khẩu của 2 lô hàng thuộc hợp đồng số 005 và 008 đều là Công ty Acer Peripherals Asia Pacific Inc, Taiwan, R.O.C., thay vì Acer Technologies Sdn-Bhd, Malaysia. (**) ASD = Acer Sales and Distribution Ltd. Hồng Kông. Tên pháp nhân chủ thể bên bán của các Hợp đồng số 005, 006 và 008 được ghi đầy đủ; riêng hợp đồng số 007, tên pháp nhân Acer Sales and Distribution Ltd., Hồng Kông (nguyên đơn) được Thẩm phán Tòa sơ thẩm viết tắt là ASD để không tạo sự chú ý của người đọc bản án, che dấu “hành vi sai sót quan trọng” của bị đơn khi lập các hợp đồng thương mại giả mạo. |
4) 4 Hợp đồng thương mại số 005, 006, 007 và 008, (bài thảo luận SvLVTPL 45.2) - đã bị tố cáo là giả mạo và không được Hội đồng xét xử công nhận đó là chứng cứ, được Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xác định “4 hợp đồng trên đã được Công ty Bách Thắng thực hiện bằng việc nhận hàng và thanh toán theo chỉ định của các bên bán hàng có tên trên hợp đồng thông qua Ngân hàng TMCP Đông Á – chi nhánh tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Nếu có phát sinh tranh chấp từ 4 hợp đồng này thì giữa ông Harry Yang với Công ty Bách Thắng tự thương lượng để giải quyết hoặc sẽ được giải quyết bằng vụ án khác, nếu đương sự có yêu cầu, không liên quan đến Công ty ASD”.
Thẩm phán được Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao phân công thụ lý xem xét đơn khiếu nại yêu cầu kháng nghị bản án phúc thẩm đã:
- không áp dụng các điều khoản thương mại quốc tế (Incoterms) 1990 – là kiến thức cơ bản về Luật Thương mại Quốc tế, đã được giảng dạy tại các trường Đại học Luật.
- sai sót không xem xét kỹ chủ thể bên bán ghi trên hợp đồng thương mại số 007-20ACER-BT ngày 11/08/2000 và tên người xuất khẩu (đơn vị bán hàng) ghi tại mục 1 của tờ khai hàng hóa nhập khẩu số 18247/KV1-NKD ngày 29/08/2000 với điều kiện giao hàng CIF cảng Tp. HCM do Công ty CP Điện tử Bách Thắng lập để thông quan lô hàng thứ 3, 1000 bo mạch, chính là nguyên đơn – Công ty Acer Sales and Distribution Ltd. Hồng Kông;
Do vậy Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mới trả lời khiếu nại của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và của ông Harry Yang như trên đây “ … Nếu có phát sinh tranh chấp từ 4 hợp đồng này thì giữa ông Harry Yang với Công ty Bách Thắng tự thương lượng để giải quyết hoặc sẽ được giải quyết bằng vụ án khác, nếu đương sự có yêu cầu, không liên quan đến Công ty ASD”
(trang 3 công văn 247/TANDTC-KT ngày 18/11/2010)
Hơn 2 năm 6 tháng nghiên cứu xem xét đơn khiếu nại yêu cầu kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm (kể từ ngày 8/4/2008), Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao không phát hiện được việc Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng: không đánh giá chứng cứ, không công bố và sử dụng chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo quy định tại điều 96, 97 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.7 mục 2 phần II, điểm d tiểu mục 2.7 mục 2 và mục 4 phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”. |
Tài liệu đính kèm bài thảo luận:
- Biên nhận đơn kháng nghị bản án phúc thẩm (số 1729/BN-PTD ngày 08/4/2008 của Phòng tiếp dân, Tòa án nhân dân tối cao);
- 4 bản dịch hợp đồng thương mại giả mạo số 005, 006, 007 và 008-20ACER-BT
- 4 vận đơn
- 4 Tờ khai hàng hóa nhập khẩu của 4 lô hàng
- Trang 11 bản án sơ thẩm
- Trang 9 bản án phúc thẩm
21g15 thứ năm 12/5/2011
Cập nhật bởi DealingHonestly ngày 12/05/2011 09:35:35 CH