Tôi cũng có đọc qua một vài bài báo nói về cuộc tranh luận nảy lửa giữa VFF với VPF về bản quyền truyền hình giải bóng đá ngoại hạng quốc gia. Vì nó liên quan tới một số khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ nên cũng có quan tâm chứ thực ra không phải là người thích xem bóng đá. Theo tôi, dù trường hợp nào thì VFF cũng nắm đằng chuôi trong cuộc đối đầu này bởi những ưu đãi dành cho họ theo quy định của pháp luật.
-
Trước tiên, vấn đề đầu tiên tôi muốn làm rõ, ai là chủ sở hữu các quyền liên quan đối với các giải bóng đá quốc gia? Chúng ta có thể dẫn chiếu tới một số quy định pháp luật có liên quan như sau:
Luật thể dục, thể thao 2006 viết:Điều 53. Quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp
1. Việc bảo hộ quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được thực hiện theo pháp luật về dân sự và pháp luật về sở hữu trí tuệ.
2. Liên đoàn thể thao quốc gia, câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác tổ chức giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp là chủ sở hữu giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp do mình tổ chức.
3. Chủ sở hữu giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được chuyển nhượng quyền sở hữu đối với giải thể thao cho tổ chức, cá nhân theo hợp đồng do các bên thoả thuận.
4. Chính phủ quy định chi tiết về quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp.
Nghị định số 112/2007/NĐ-CP viết:Điều 12. Quyền của chủ sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp
1. Liên đoàn thể thao quốc gia, câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp và các tổ chức, cá nhân tổ chức giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp có các quyền sau đây:
a) Định hình giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp trên bản ghi âm, ghi hình;
b) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình;
c) Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp;
d) Phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
2. Chủ sở hữu giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được chuyển nhượng quyền sở hữu theo hợp đồng do các bên thoả thuận. Trình tự, thủ tục chuyển nhượng, hợp đồng chuyển nhượng thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự về sở hữu trí tuệ.
Qua các quy định trên, có thể khẳng định được quyền của chủ sở hữu (cụ thể, các quyền liên quan theo luật sở hữu trí tuệ là sao chép, phát sóng tới công chúng...) là
liên đoàn thể thao quốc gia, câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp và các tổ chức, cá nhân tổ chức giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp. Như vậy,
liên đoàn thể thao quốc gia không phải là người duy nhất có quyền cuả chủ sở hữu mà còn có các đồng chủ sở hữu khác.
-
Từ trên, nảy sinh vấn đề tiếp theo cần giải quyết, đó là, liệu VFF (Liên đoàn bóng đá Việt Nam) có quyền tự ký các hợp đồng chuyển nhượng quyền liên quan tới các giả thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp mà không cần thông qua sự cho phép của các đồng sở hữu khác (câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp,...)?
+ Chúng ta đều biết rằng, các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp là thành viên của VFF,
Luật thể dục, thể thao 2006 viết:Điều 49. Câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp
.................................................
Câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp là thành viên của liên đoàn thể thao quốc gia.
do đó, các câu lạc bộ này cũng chịu sự điều chỉnh của Điều lệ Liên đoàn bóng đá Việt Nam (bản mới nhất là bản sửa đổi, bổ sung phê duyệt kèm theo Quyết định số 224/QĐ-BNV ngày 19/03/2010), khi trở thành thành viên thì mặc định đã chấp nhận các quy định trong bản điều lệ. Cụ thể:
Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) Liên đoàn bóng đá Việt Nam viết:Điều 4. Nhiệm vụ và quyền hạn
14. Sở hữu tất cả các quyền phát sinh từ các giải đấu và các sự kiện thuộc quyền quản lý, tổ chức, điều hành của LĐBĐVN, trong đó bao gồm các quyền về tài chính; quyền thu thanh, ghi hình; sản xuất; phát thanh, truyền hình; truyền thông đa phương tiện; quảng cáo, tiếp thị; các quyền khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Có thể thấy rõ ràng rằng, các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp khi trở thành thành viên đã mặc nhiên chuyển nhượng toàn bộ quyền tài sản của mình đối với những trận bóng đá có sự tham gia của câu lạc bộ đó cho VFF, và lúc này, VFF là chủ sở hữu duy nhất đối với các giải bóng đá ngoại hạng quốc gia. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng được ngầm hiểu này vẫn chưa có hiệu lực nếu căn cứ vào các quy định của Luật SHTT 2005,
Luật thể dục, thể thao 2006 viết:Điều 53. Quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp
1. Việc bảo hộ quyền sở hữu đối với giải thể thao thành tích cao và giải thể thao chuyên nghiệp được thực hiện theo pháp luật về dân sự và pháp luật về sở hữu trí tuệ.
cụ thể, theo quy định, việc chuyển nhượng quyền liên quan phải được lập thành hợp đồng bằng văn bản:
Luật sở hữu trí tuệ 2005 viết:Điều 46. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan
1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn bản gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;
b) Căn cứ chuyển nhượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Quyền và nghĩa vụ của các bên;
đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Qua các bài báo thể hiện những chứng cứ tự bảo vệ của các bên, không hề thấy đề cập tới hợp đồng chuyển nhượng quyền liên quan giữa các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp với VFF. Nếu không có hợp đồng này, về mặt pháp lý, các câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp vẫn là đồng sở hữu với các trận đấu có sự tham gia của mình, nên VFF khi chuyển nhượng bản quyền truyền giải bóng đá quốc gia vẫn cần có sự chấp thuận của đại diện các câu lạc bộ bóng đá, nếu không hợp đồng sẽ vô hiệu.
-Hợp đồng độc quyền bản quyền truyền hình giải bóng đá quốc gia giữa VFF và AVG có hiệu lực ? Như đã phân tích ở trên, nếu giữa các câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp chưa xác lập với VFF một hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối với các trân đấu mà họ tham gia thì về mặt pháp lý, VFF không phải là chủ sở hữu duy nhất, do đó, việc chuyên nhượng cho bên thứ 3 cần có sự đồng ý của tất cả các đồng sở hữu (VFF và các câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp). Do đó, Hợp đồng VFF và AVG có khả năng vô hiệu nếu chưa thỏa mãn điều kiện trên.
- Việc AVG ký hợp đồng độc quyền với VFF khi chưa có Giấy phép truyền hình có dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng? Theo tôi, việc có hay không Giấy phép truyền hình không làm ảnh hưởng đến hiệu lực hợp đồng giữa AVG và VFF, bởi cần phân biệt giữa việc có quyền và việc có thể thực hiện quyền đó hay không. Cho dù AVG không đuợc phép thưc hiện quyền phát sóng (chưa có Giấy phép truyền hình) nhưng pháp luật không cấm AVG sở hữu "quyền đó". Nếu AVG thực hiện quyền khi mà chưa đuợc phép thì sẽ chịu chế tài xử lý khác nhưng không thể bác bỏ được "quyền" mà AVG đã mua.
-VPF có thẩm quyền cho phép các tổ chức phát sóng thực hiện việc phát sóng đối với giải bóng đá quốc gia hay không? Theo tôi, VPF không có đủ thẩm quyền làm điều này. Dựa vào chứng cứ mà VFF đã đưa ra trên các bài bào, có thể thấy, VPF chỉ được trao quyền quản lý, tổ chức và điều hành các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam nhưng không đồng nghĩa là trao các quyền sở hữu bản quyền truyền hình bóng đá quốc gia. (Tham khảo thêm tại:
http://danviet.vn/72294p1c27/vff-khang-dinh-la-chu-so-huu-duy-nhat-giai-vo-dich-quoc-gia.htm)
- VTC có phải bồi thường thiệt hại trực tiếp và gián tiếp cho việc VTC tổ chức sản xuất trận bóng đá giữa V.Ninh Bình và CS.Đồng Tháp không? Điều này còn tùy thuộc vào hợp đồng độc quyền giữa AVG và VFF có hiệu lực hay chưa. Nếu hợp đồng giữa AVG và VFF chưa có hiệu lực, thì AVG không có quyền yêu cầu VTC phải bồi thường và xin lỗi công khai, mà chỉ có chủ sở hữu ban đầu (VFF và câu lạc bộ bóng đá liên quan) mới có quyền này.
Đời người ngắn hay dài há do ý muốn. Đã biết như thế mà còn tham sống, há không phải là u mê. Đã biết như thế, mà còn sợ chết há không phải là tuổi trẻ lưu lạc tha hương đến nỗi quên cả đường về. Đã biết như thế người chết đi có khi lại hối hận là từng tham sống cũng nên - Trang Tử
Dịch nghĩa:
Sống chắc gì đã sướng mà chết chắc gì đã khổ. Sống chết thật ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn. Khi chết đi chính là tỉnh mộng. Không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn. Sao không chết sớm hơn. Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.