Chương IX: AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG
Chương này Bộ luật Lao động hiện hành gồm 14 điều (Từ Điều 95 đến Điều 108).
Bộ luật Lao động (sửa đổi) gồm 20 điều (Từ Điều 133 đến Điều 152).
Những điểm mới trong Chương này là:
- Bên cạnh việc đầu tư nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất dụng cụ, thiết bị an toàn lao động và các phương tiện bảo vệ cá nhân thì chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời gian tới là: Khuyến khích phát triển các dịch vụ an toàn lao động, vệ sinh lao động để đáp ứng ngày càng tốt hơn đến việc chăm sóc sức khoẻ, đảm bảo an toàn cho người lao động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Về bổ sung trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc phân công người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, Bộ luật Lao động (sửa đổi) quy định:
+ Người sử dụng lao động phải cử người làm công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đối với những cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực có nhiều nguy cơ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và sử dụng từ 10 lao động trở lên thì người sử dụng lao động phải cử người có chuyên môn phù hợp để làm cán bộ chuyên trách về công tác an toàn, vệ sinh lao động.
Những người làm công tác chuyên trách về an toàn lao động, vệ sinh lao động của doanh nghiệp nhất thiết phải được tham gia các khóa huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể xảy ra những sự cố, những tình huống đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chủ động để đối phó với những tình huống khẩn cấp. Bộ luật Lao động (sửa đổi) bổ sung quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động phải chủ động xây dựng phương án xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp và định kỳ tổ chức việc diễn tập để sẵn sàng xử lý tốt các tình huống.
- Bổ sung quy định: người làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại được người sử dụng lao động bồi dưỡng bằng hiện vật.
- Bộ luật Lao động hiện hành khi quy định về tai nạn lao động chỉ đề cập đến cụm từ “người lao động” dẫn đến trong thực tế có những đối tượng khác chưa phải là người lao động có quan hệ lao động với doanh nghiệp khi bị tai nạn lao động, không được chủ sử dụng lao động đảm bảo quyền lợi. Bộ luật Lao động (sửa đổi) lần này định rõ những quy định đối với người bị tai nạn lao động không chỉ áp dụng riêng cho người lao động mà còn được áp dụng đối với cả người học nghề, tập nghề và thử việc.
- Đối với người bị tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì ngoài việc bồi thường theo quy định hiện hành, người sử dụng lao động còn có trách nhiệm:
+ Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm y tế.
Những người lao động không tham gia bảo hiểm y tế thì người sử dụng lao động phải thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu cho đến khi điều trị ổn định.
+ Trả đủ tiền lương theo Bộ luật Lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời gian điều trị mà phải nghỉ việc.
- Khi xây dựng kế hoạch sản xuất hàng năm của doanh nghiệp, người sử dụng lao động phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động.
- Do tầm quan trọng trong việc phòng ngừa tai nạn lao động, Điều 150 Bộ luật Lao động (sửa đổi) quy định:
+ Người sử dụng lao động, người làm công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động phải tham dự khóa huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động, phải qua kiểm tra, sát hạch và được cấp chứng chỉ, chứng nhận.
+ Người sử dụng lao động phải tổ chức huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động, người học nghề, tập nghề...
Hãy làm tất cả những gì trong phạm vi cho phép và khả năng có thể!