Sử Luật Việt Nam

Chủ đề   RSS   
  • #17196 16/12/2009

    MTAThu
    Top 500
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:02/04/2008
    Tổng số bài viết (126)
    Số điểm: 1545
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Sử Luật Việt Nam

    BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC

    Đây là bộ luật đầu tiên của Việt Nam ta thời phong kiến

    Trong quá trình xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, nhà Lê đã lấy những quan đIểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, yêu nước, thương nòi, lấy dân làm gốc, quan tâm đến đời sống của muôn dân.

    Đó là những yếu tố cơ bản chi phối việc soạn thảo văn bản luật pháp và biểu hiện ra rất đậm nét trong khắp các chương của bộ hình luật Lê triều, hay còn gọi là Luật Hồng Đức.

    Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 722 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:

    - Giữ cho đất nước luôn ở thế phòng bị đối với quan xâm lược nước ngoài;

    Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;

    Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;

    Mở rộng giao lưu khuyến khích thương nghiệp lành mạnh;

    Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, bảo vệ quyền lợi tài sản của dân chống lại sự đục khoét của quan lại sâu mọt;

    Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục;

    Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ;

    Chính sách hình sự nghiêm nhưng độ lượng.

    Cách tân về tổ chức bộ máy chính quyền

    Vua Lê Thánh Tông đã từng bước một tiến hành những cách tân sâu sắc về hành chính, về quân sự, và về pháp luật làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước được khôi phục và ngày càng có hiệu lực, đưa đất nước đi dần vào thế ổn định và kế đó là tạo đà phát triển đi lên một cách vững chắc.

    Về mặt hành chính, nhà Vua đã kiên quyết và kiên trì cải tạo bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.

    Đời Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Lợi chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành 6 bộ:

    1. Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;

    2. Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ Đình, Chùa, Miếu mạo;

    3. Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;

    4. Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;

    5.Hình Bộ:Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;

    6. Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.

    Giữ cho đất nước luôn ở thế phòng bị đối với quan xâm lược nước ngoài

    Trong bộ luật Hồng Đức có nhiều điều quy định rõ trách nhiệm bảo vệ đường biên, vùng biển, cửa quan. Các hành vi xâm phạm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ bị trừng trị nghiêm khắc. Trong Bộ luật Hồng Đức có nhiều điều quy định rõ về việc xử phạt đối với các hành vi ấy. Ví dụ: "Người chốn qua cửa quan ra khỏi biên giới đi sang nước khác thì bị chém" (đ.71) hoặc "Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài thì bị chém" (đ.74).

    Vua Lê Thánh Tông còn ban hành các đạo dụ, những sắc chỉ quy định việc kê khai, kiểm tra dân số của toàn vương quốc, đặt ra luật lệ về chế độ binh dịch mà ngày nay chúng ta gọi là Nghĩa vụ quân sự; Đặt ra phép quân điền cùng với việc xây dựng quân đội chính quy, thiện chiến làm cho đất nước luôn ở trong tình trạng đầy đủ sức mạnh để đặt tan mọi mưu toan xâm lược

    Giữ nghiêm kỷ cương phép nước

    Người xưa có nói: "Mọi sự rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn về kỷ cương. Giữ nghiêm kỷ cương là phải giữ gìn từ những kỷ cương hàng ngày, từ những điều tưởng chừng như là nhỏ nhặt nhất. Kỷ cương nhỏ nhặt nhất không giữ được thì làm sao giữ nổi kỷ cương phép nước".

    Khi ban hành dụ: "Hiệu định quan chế", nhà vua đã nói rõ:"Từ nay con cháu ta nên biết thể chế này ban hành là do việc bất đắc dĩ. Một khi pháp độ đã định, nên kính giữ noi theo. Chớ có cậy thông minh, bàn xằng triều trước mà sửa đổi làm cho pháp điển ngửa nghiêng để tự hãm vào điều bất hiếu.

    Kẻ làm bầy tôi giúp giập, cũng nên kính giữ phép thường, cố giúp mãi vua ngươi, khiến noi công trước, để mãi tránh khỏi tội lỗi. Bằng dám có dẫn xằng phép trước, luận càn đến một quan, đối một chức, chính thị là bầy tôi phản nghịch, làm rối loạn phép nước thì bị giết bỏ giữa chợ không thương, gia thuộc đều bị đầy ra nơi biên viễn để rõ cái tội làm tôi không trung, ngỏ hầu muôn đời sau biết đến cái ý sáng chế lập pháp còn ngự ở đấy vậy".

    Vua Lê Thánh Tông đặc biệt đề cao trách nhiệm của quan lại. Ông nói: "Các quan viên là những người gân guốc của xóm làng nhờ đó mà chính được phong tục. Vậy phải lấy lễ, nghĩa, liêm, sĩ mà dạy dân khiến cho dân xu hướng về chữ nhân, chữ nhượng, bỏ hết lòng gian phi, để cho dân được an cư, lạc nghiệp, giàu có đông đúc, mình cũng được tiếng là người trưởng giả trong làng".

    Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội

    Dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp là nền tảng của xã hội. Quả là đúng, khi Nhà Vua anh minh ấy, ngay từ ngày đầu lên trị vì đã lấy việc mở mang nông nghiệp làm trọng.

    Trước hết, trong việc cải cách hành chính, Nhà Vua đã đặt ra các cơ quan chuyên trách về việc chấn hưng nông nghiệp như đặt ra bốn cơ quan mới: Sở tầm tang chuyên chăm lo khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa; Sở thực thái chuyên lo việc trồng rau; Sở điền mục chuyên lo việc chăn nuôi gia súc, gia cầm và Sở đồn điền chuyên lo việc ruộng đất. ông còn đặt thêm chức quan mới: Quan Hà đê để chăm lo việc đắp đê, hộ đê, phòng chống bão lụt.

    Nhà vua Lê Thánh Tông đặc biệt coi trọng việc đắp đập, tu sửa đê điều để đề phòng bão lụt. Trong Bộ luật Hồng Đức có hai điều quy định khá tỷ mỉ về vấn đề này: "Việc sửa đê những sông lớn bắt đầu từ ngày mồng 10 tháng giêng, người xã nào ở trong đường đê phải đến nhận phần đắp đê, hạn trong hai tháng đến ngày mồng 10 tháng 3 thì làm xong. Những đường đê mới đắp hạn trong 3 tháng phải đắp xong. Quan lộ phải năng đến xem xét, quan coi đê phải đốc thúc hàng ngày. Nếu không cố gắng làm để quá hạn mà không xong thì quan lộ bị phạt, quan giám bị biếm. Quân lính và dân binh không theo thời hạn đến làm và không chăm chỉ sửa đê, để quá hạn không xong thì bị trượng hoặc biếm".

    Mở rộng giao lưu khuyến khích thương nghiệp lành mạnh

    Để tạo thuận tiên cho việc mua bán, lẽ dĩ nhiên phải có nơi buôn bán. Nhà Vua Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: "Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau". Có thể dưới thời Lê Thánh Tông các chợ được mở mang nhiều. ở các xã lớn hoặc mấy xã ở gần nhau thường có một chợ chung, họp hàng ngày. Trung tâm buôn bán ở nông thôn còn lưu lại đến ngày nay là các chợ phiên thường mở vào những ngày nhất định trong tháng. Chợ phiên là nơi mua bán sầm uất, có nhiều mặt hàng nhất.

    Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay, đã có lịch sử hình thành trên 500 năm - Nghĩa là từ thời gian dưới triều vua Lê Thánh Tông. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng và nhiều phường khác nữa mỗi khi nhắc đến tên đã là người Việt Nam, ai ai cũng đều lấy làm tự hào về những di sản của cha ông đẻ lại cho con cháu.

    Dưới thời trị vì của Vua Lê Thánh Tông hàng hoá từ kinh đô Thăng Long về các nơi trung tâm buôn bán các địa phương trong cả nước, luôn luôn tấp nập xuôi ngược như những dòng suối cuộn chảy ngày đêm không bao giờ ngừng.

    Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, trừng trị nghiêm khắc những hành vi ức hiếp, đục khoét dân lành của quan lại

    Vua Lê Thánh Tông trong ý thức và hành động của mình lại lấy dân làm quý. Ông chăm lo rất chu đáo đến sự ấm no cho dân. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là bằng cách cải cách pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất, là cái quyền gốc cho việc thực hiện các quyền tiếp theo đảm bảo quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho người nông dân.

    Trong Bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật quy định việc trừng phạt những hành vi vi phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất của người nông dân như: Tranh giành đất đai trái với chúc thư (đ.354), nhận bừa ruộng đất của người khác (đ.344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người khác (đ.355), tá điền cấy rẽ mà trở mặt ăn cướp (đ.356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất, nhổ bỏ giới mốc (đ.357), chặt cây trong khu mộ địa của người khác (đ.358), cấy trộm vào phần đất, phần mộ của người khác, chôn cất trộm vào ruộng của người khác (đ.359), ruộng đất đang tranh chấp mà đánh người để gặt lấy lúa má (đ.360), cấy rẽ ruộng công hay tư, không báo cho chủ mà tự tiện đến gặt (đ.361), các nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất ao đầm của nhân dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định (đ.370).

    Bộ luật Hồng Đức còn có cả những điều quy định nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất cho trẻ em và người già như: "Chồng chết con còn nhỏ, vợ tái giá mà bán điền sản của con (đ.377), cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản (đ.378), người trong họ tự tiện bán ruộng của đứa cháu mồ côi (đ.379) đều bị xử phạt".

    Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ

    Triều Lê là một triều đại trọng Nho giáo, tức là những quy định khắt khe của Nho giáo với người phụ nữ như “tam tòng tứ đức” được coi trọng. Tuy nhiên trong bộ luật đương thời của triều đình cũng có một số đIũu luật được coi là cách tân bảo vệ quyền lợi người phụ nữ.

    Một số điều luật quy định: "Phàm chồng đã bỏ lửng vợ năm tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của mình thì phải tội biếm (đ.308)". Cùng với mục đích bênh vực phụ nữ, trong Bộ luật Hồng Đức còn có điều quy định rằng: "Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái kêu quan mà trả lại đồ lễ. Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả lại đồ lễ, trái luật bị phạt 80 trượng (đ.322)" hoặc: "Những nhà quyền thế mà ức hiếp để mà lấy con gái nhà lương dân, thì xử tội phạt biếm, hay đồ (đ.338)".

    Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục

    Trong Bộ luật Hồng Đức còn có những điều đặt ra với mục đích để bảo vệ thuần phong mỹ tục.

    Ví dụ: Để khuyến khích tình thương yêu đồng loại, đồng tộc, đồng bào trong Bộ luật Hồng Đức có quy định các điều luật như: "Thôn, phường phải giúp đỡ kẻ ốm đau không nơi nương tựa, phải chôn cất những người chết đường (đ.294)"; "Phải chăm sóc người cô quả tàn tật không nơi nương tựa (đ.295), bắt được trẻ lạc phải báo quan (đ.604)", có người chết đường, dân sở tại phải chôn cất (đ.607).

    Chính sách hình sự nghiêm nhưng độ lượng

    Tính nghiêm minh trong chính sách hình sự ở Bộ luật Hồng Đức trước hết được thể hiện ở chỗ các tội ác nào được coi là tội nặng. Các tội được gọi là "tội ác" gồm có 10 loại: "Thập ác" bao gồm:

    1. Mưu phản là các tội xâm phạm đến an ninh tổ quốc, đến vẹn toàn lãnh thổ quốc gia.

    2. Mưu đại nghịch là các tội chống lại tính mạng, tài sản nhà vua.

    3. Mưu chống đối là các tội làm gián điệp hoặc cấu kết với nước ngoài chống lại tổ quốc.

    4. ác nghịch là các tội đánh giết ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, anh chị em ruột thịt...

    5. Bất đạo là các tội thể hiện tính đặc biệt man dợ, tàn ác như giết 3 người trở lên một lúc, giết xong rồi lại chặt nạn nhân thành từng mảnh, dùng thuốc độc giết người.

    6. Đại bất kính là các tội ăn trộm đồ thờ cúng trong lăng miếu của nhà vua, làm giả ấn tín nhà vua, bất cẩn trong việc chăm nom thuốc thang, ăn uống và phục dịch các nhu cầu khác của nhà vua.

    7. Bất hiếu là các tội tố cáo hoặc dùng lời lẽ để chửi mắng, bỏ đói, bỏ rét ông bà, cha mẹ, hoặc khi có tang ông bà cha mẹ lại không để tang mà nhởn nhơ vui chơi.

    8. Bất mục là giết hoặc đem bán những người trong họ từ hàng phải để tang từ 3 tháng trở lên, đánh đập và tố cáo chồng.

    9. Bất nghĩa là tội giết các quan chức trong hạt, học trò giết thầy học, chồng chết mà không cử ai (để tang - chú thích của tác giả) mà lại vui chơi, ăn mặc như thường.

    10. Nổi loạn là các tội loạn luân.

    Như vậy theo chính sách hình sự của nhà vua Lê Thánh Tông đã được thể hiện trong Bộ luật Hồng Đức thì ngoài các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, xâm phạm đến quyền lợi của Nhà Vua, thì các loại tội xâm phạm đến thuần phong mỹ tục như: Bất đạo, bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân cũng được coi là những tội ác, thường bị xử phạt với hình thức cao nhất là tử hình.

    (post từ http://lichsuvn.info)

     

    Cập nhật bởi LawSoft02 ngày 20/03/2010 10:54:27 AM
     
    27573 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

2 Trang 12>
Thảo luận
  • #17197   12/07/2008

    MTAThu
    MTAThu
    Top 500
    Chồi

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:02/04/2008
    Tổng số bài viết (126)
    Số điểm: 1545
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA QUI PHẠM PHÁP LUẬT
    TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC


    ThS. Nguyễn Minh Tuấn
    Giảng viên Khoa Luật, ĐHQGHN

    Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp Số 33(118) Tháng 3/2008 , số chủ đề Hiến kế Lập pháp (tr.49 - 51)

    (I)
    Cách diễn đạt qui phạm pháp luật
    trong Bộ luật Hồng Đức


    1. Muốn xây nhà phải có gạch, từng viên gạch trong tòa nhà pháp luật chính là các qui phạm pháp luật. Một qui phạm pháp luật thường rất chặt chẽ vì xét về mặt logic nó gồm có 3 bộ phận là giả định, qui định và chế tài. Giả định trả lời câu hỏi chủ thể nào, thời gian nào, hoàn cảnh nào phải thực hiện pháp luật? Bộ phận qui định trả lời câu hỏi nếu đặt vào hoàn cảnh đã nêu ở phần giả định thì chủ thể đó sẽ phải xử sự như thế nào? và bộ phận chế tài trả lời câu hỏi trường hợp không xử sự đúng yêu cầu đó thì chủ thể sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi như thế nào?


    Bộ luật Hồng Đức là bộ luật thành văn nổi tiếng và có giá trị bậc nhất trong cổ pháp Việt Nam. Bộ luật này gồm 722 Điều, được chia làm 13 Chương, đa phần các điều luật được xây dựng theo phương thức cả 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài đồng thời xuất hiện trực tiếp, thậm chí ngay trong cùng một Điều luật.


    Chẳng hạn như:
    Điều 586 có ghi: “Trâu của 2 nhà đánh nhau, con nào chết thì 2 nhà cùng ăn thịt, con nào sống thì 2 nhà cùng cày, trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng.”. Trong đó: trâu của 2 nhà đánh nhau là giả định; con nào chết thì 2 nhà cùng ăn thịt, con nào sống thì 2 nhà cùng cày là quy định; trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng là chế tài.


    Hoặc, Điều 89: “Trước sau ngày hoàng đế lên ngôi một tháng, cấm các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang, người nào phạm phải thì phạt 50 roi, biếm một tư”. Trong đó: Trước sau ngày hoàng đế lên ngôi một táng là giả định; cấm các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang là qui định; trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng là chế tài.


    Với cách mô tả hành vi vi phạm pháp luật và chế tài đối với chủ thể thực hiện hành vi đó rõ ràng như vậy, người dân sẽ biết được hành vi nào nên làm, hành vi nào nên tránh. Quan xử án cũng biết được cần phải xử như thế nào, mức cụ thể ra sao.


    Tính chất cụ thể, rõ ràng của cách diễn đạt thể hiện rất rõ ở việc mô tả ngắn gọn lại một tình huống cụ thể. Thí dụ như điều 393: “Người cha lấy vợ trước sinh được một con trai, phần hương hoả đã giao cho giữ; nhưng người con trai ấy lại chỉ sinh được một người con gái; mà cha có vợ lẽ hay nàng hầu lại sinh được một con trai nhưng lại bị cố tật, người con trai cố tật ấy sinh được cháu trai, thì ruộng đất hương hoả phải giao cho người cháu trai con kẻ cố tật, để tỏ ra rằng dòng họ không thể để tuyệt.”.


    Hoặc thí dụ, Điều 395: “Cha mẹ sinh được hai con trai, người con trai trưởng chỉ sinh con gái, con thứ lại có con trai thì phần hương hỏa giao cho con trai người con thứ; nhưng con trai người con thứ chỉ sinh cháu gái thì phần hương hỏa trước kia lại phải giao trả cho con gái người con trưởng”. Ưu điểm của cách qui định ngắn gọn một tình huống, ngoài việc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ vận dụng còn cho thấy từ một vấn đề pháp lý khá phức tạp đã được chuyển hóa thành một tình huống rất đơn giản.


    2. Một nét đặc sắc khác trong quy phạm pháp luật của Bộ luật Hồng Đức chính là cách qui định chế tài dưới dạng chế tài cố định. Nghĩa là với mỗi một vi phạm cụ thể thì có một hình phạt cụ thể tương ứng; mức độ tăng nặng hay giảm nhẹ cũng được quy định ngay sau đó một cách cụ thể, rõ ràng.


    Ví dụ như điều 466 quy định: "Đánh gãy răng, sứt tai mũi, chột 1 mắt, gãy ngón chân, ngón tay, giập xương, hay lấy nước sôi, lửa làm người bị thương và rụng tóc, thì xử tội đồ làm khao đinh. Lấy đồ bẩn thỉu ném vào đầu mặt người ta thì xử biếm 2 tư; đổ vào miệng mũi thì biếm 3 tư. Đánh gãy 2 răng, 2 ngón tay trở lên thì xử tội đồ làm tượng phường binh. Lấy gươm giáo đâm chém người, dẫu không trúng cũng phải lưu đi châu gần (người quyền quý phạm tội thì xử tội biếm). Nếu đâm chém bị thương và làm đứt gân, chột 2 mắt, đoạ thai thì xử tội lưu đi châu xa.


    Nếu trong khi đương xét hỏi, người bị thương lại bình phục, thì tội nhân được giảm tội 2 bậc. Nếu đánh bị thương 2 người trở lên và nhân bị thương mà thành cố tật, hay đánh đứt lưỡi, huỷ hoại âm, dương vật đều xử tội giảo; và phải đền tiền thương tổn như lệ định. Với chế tài cố định này, nó đã đảm bảo tính chính xác trong việc áp dụng luật của các cơ quan Nhà nước, tránh được sự tuỳ tiện trong việc áp dụng luật”.


    3. Làm luật quan trọng nhất là dự đoán được các vấn đề phát sinh. Dự đoán tốt, luật sẽ có sức sống lâu dài. Trong Bộ luật Hồng Đức từ một sự kiện hay vụ việc, nhà làm luật đã khéo léo lường tính các vấn đề phát sinh xung quanh vụ việc đó. Thí dụ, Điều 234: “Những quan coi quân đội ở các trấn, lộ hay huyện cùng những quan viên trong các cục các viện, đi lại giao kết với nhau, mưu làm việc phản nghịch, mà quan ty quản giám chẳng lưu tâm xem xét, hay dung túng giấu giếm không tâu lên, thì cùng với người phản nghịch cùng một tội; nếu đã tâu lên mà lại ngầm sai người báo cho kẻ phản nghịch biết thì tội cũng thế. Nếu vì tâu lên không giữ kín đáo để cho kẻ phản nghịch biết thì viên quan tâu được giảm tội 1 bậc. Nếu việc mưu phản nghịch đã lộ, việc hung ác đã rõ, mà quan giám không xét tình thế mà lung bắt và tâu lên, thì bị tội như tội đồng mưu; nếu việc mưu phản chưa lộ thì được giảm nhẹ hai bậc.”.

    Còn tiếp

    Xin chân thành cảm ơn tác giả (MTAThu post từ http://tuanhsl.blogspot.com)

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn MTAThu vì bài viết hữu ích
    nhoknho (07/04/2013)
  • #17198   17/08/2009

    phanuyen511
    phanuyen511

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:17/08/2009
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    nguyên văn bộ luật Hồng đức?

    Các bạn biết nguồn truy cập ( hoặc nơi có thể tra cứu ) nguyên văn Bộ luật Hồng đức xin tư vấn cho tôi. Xin cảm ơn nhiều
     
    Báo quản trị |  
  • #17199   16/12/2009

    Thanhp3
    Thanhp3

    Sơ sinh

    Hậu Giang, Việt Nam
    Tham gia:30/07/2008
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 60
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1 lần


    Bộ Luật Hồng Đức

    Bài viết hay đấy!
    Làm ơn cho xin toàn bộ Bộ Luật Hồng Đức nhé! Cám ơn nhiều
    nguynvuongthanh@yahoo.com.vn

    Nguyễn Vương Thành

     
    Báo quản trị |  
  • #17328   24/09/2009

    bienk1a
    bienk1a

    Sơ sinh

    Bắc Giang, Việt Nam
    Tham gia:06/11/2008
    Tổng số bài viết (13)
    Số điểm: 285
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 2 lần


    Tại sao trong nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến chưa có Hiến pháp?

    Tại sao trong nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến chưa có Hiến pháp?
     
    Báo quản trị |  
  • #17329   15/12/2008

    ONENIGHTSTAND
    ONENIGHTSTAND

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/11/2008
    Tổng số bài viết (33)
    Số điểm: 90
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 1 lần


    Nên tham khảo bài viêt này để hiểu tại sao

    Đây là dường link: tiếng việt
    tiếng anh

     
    Báo quản trị |  
  • #17330   19/02/2009

    buivvanminh145
    buivvanminh145

    Sơ sinh

    Hưng Yên, Việt Nam
    Tham gia:19/02/2009
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    bienk1a viết:
    tại sao trong nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến chưa có Hiến pháp?
     
    Báo quản trị |  
  • #17331   17/12/2008

    k53lkd
    k53lkd

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:06/12/2008
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Sự hình thành nhà nước trong lịch sử? phải làm những gì khi trả lời cho câu hỏi này?

    Có nên nói đến sự ra đời và tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ khi trả lời cho câu hỏi này hay không( thi vấn đáp)
     
    Báo quản trị |  
  • #17332   29/08/2009

    huangads33c
    huangads33c

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:29/08/2009
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 95
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 6 lần


    Tại sao trong nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến chưa có Hiến pháp?

    Theo mình nhà nước chủ nô và phong kiến chưa có hiến pháp vì có 6 lý do sau đây

    1. Nhà nước hủ nô phong kiến thực hiện theo thể chế quân chủ chuyên chế(quyền lực nhà nước thâu tóm trong tay người đứng đầu  dó là nhà vua.vua là người nắm cả quyền hành pháp - lập pháp và tư pháp,nếu có hiến pháp sẽ xâm phạm tới quyền lực của ông ta)

    2. Xã hội chủ nô và phong kiến công khai thừa nhận sự bất bình đẳng trong xã hội.nếu trong xã hội chủ nô thì ngươiì nô lệ được xem như 1 thứ hàng hoá,còn phong kiến thì người dân dù đã được tưc do hơn về mặt thân thể nhưng họ vẫn là giai cấp bị thống trị và chịu nhiều sụ bất công)mà hiến pháp là xác định quyền bình đẳng của  công dấn,hiến pháp xoá bỏ dặc quyền

    3.Đặc quyền đặc lợi trong xã hội phong kiến thuộc về giai cấp thống trị và họ không muốn chia sẻ điều đó cho giai cấp bị  trị

    4.Pháp luật lúc này chưa công nhận quyền của công dân nên hiến pháp là không thể có

    5. Pháp luật của chủ nô và phong kiến rất hà khắc,dã man

    6.Xã hội chủ nô và phong kiến là nền kinh tế tự cung tự cấp mà hiến pháp là thừa nhận chế độ thị trường
     
    Báo quản trị |  
  • #17333   31/08/2009

    kiemkhach
    kiemkhach

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:30/08/2009
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 10
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Tai sao nha nuoc chu no va nha nuoc phong kien chua co hien phap

    Theo mình ý kiến của bạn huangads33c là không đúng,vì hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước,là kim chỉ nam cho các hoạt động của cơ quan nhà nước làm theo ý chí của giai cấp nắm quyền lực.

    Vì thế không nhất thiết hiến pháp phải đáp ứng những nhu cầu như bạn đã nói.

    Đề nghị lần sau tham gia thảo luận bạn nhớ viết bằng tiếng việt có dấu. Lần này vì bạn tham gia thảo luận sôi nổi nên mình sửa giúp. Lần sau nếu bạn còn viết không dấu là vi phạm nội quy và bài đó sẽ bị xoá.

    Thân ái
    !!!


     
    Báo quản trị |  
  • #17334   30/08/2009

    kiemkhach
    kiemkhach

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:30/08/2009
    Tổng số bài viết (3)
    Số điểm: 10
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Tai sao nha nuoc chu no va nha nuoc phong kien chua co hien phap

    Theo mình thì có những lí do sau đây:

    1, Hai nhà nước trên đều là những nhà nước có pháp luật rất hà khắc và rất dã man.

    2, Nhà vua có quyền lưc vô cùng lớn ,nắm mọi quyền hành về hành pháp ,lập pháp và cả tư pháp.Mọi ý chý ,lời nói của vua chính là pháp luật bắt buộc mọi thành viên trong xã hội đó phải phục tùng

    3, Vương quyền của nhà vua gắn bó mật thiết với thần quyền,nhiều khi nhà vua còn là người đứng đầu tôn giáo ,mà chúng ta đã biết sức mạnh của tín ngưỡng mạnh đến thế nào rồi chứ.

    4, Ưu tiên của nhà nước chủ nô và phong kiến trong việc giải quyết các vi phạm và các thế lực chống đối chính là đàn áp một cách dã man

    5, Có thể còn nữa nhưng mình chưa nghĩ ra
     
    Báo quản trị |  
  • #17335   30/08/2009

    huangads33c
    huangads33c

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:29/08/2009
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 95
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 6 lần


    Vậy bạn kiemkhach có biết nguyên tắc cấu thành nội dung của ngành luật hiến pháp hay ko?

    Hai nguyên tắc:nguyên tắc chung và nguyên tắc riêng

    1.Nguyên tắc chung là nguyên tắc chi phối toàn bộ nội dung của ngành luật hiến pháp .luật hiến pháp có những quy tắc chung sau

    a. Nguyên tắc chủ quyền quốc gia
    b. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
    c.Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất
    d.Nguyên tắc đại diện nhân dân
    e. Bình đẳng đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc
    f.Nguyên tắc tập trung dân chủ.......

    Và còn nhiều nguyên tắc khác(giáo trình luật hiến pháp việt nam,trường đại học luật hà nội ,nxb tư pháp,2006)

    Vậy trong  xã hội chủ nô và phong kiến liệu quyền lực nhà nước có thuộc về nhân dân hay ko?nhân dân có đại diện hay ko?nhân dân có được bình đẳng và tập trung dân chủ hay ko?hay toàn bộ là do nhà vua quyêt định.

    Vậy hiến pháp lúc này là cái gì?và nếu có hiến pháp liệu có đúng với ý nghiă của nó ko?

    Bạn nên đọc thêm về quá trình ra đời của luật hiến pháp.bạn sẽ thấy rằng nhà nước tư sản mới có hiến pháp
     
    Báo quản trị |  
  • #17336   24/09/2009

    e3hotln
    e3hotln

    Sơ sinh

    Hậu Giang, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2009
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Đặc câu hỏi sai ??

    ONENIGHTSTAND viết:
    Đây là dường link: tiếng việt
    tiếng anh

    "Hiến pháp thành văn sớm nhất vẫn còn dùng ở một nước có chủ quyền đến nay là của San Marino. Hiến pháp San Marino được viết bằng tiếng Latin vào năm 1300 bao gồm sáu quyển. Quyển đầu tiên có 62 điều, nói về việc thiết lập các hội đồng, tòa án, các viên chức hành pháp và quyền hành của họ. Các quyển còn lại nói về tội phạm và luật dân sự và các thủ tục tòa án"._ trích từ link tiếng Việt. Mọi người cho ý kiến đzê !!

     
    Báo quản trị |  
  • #17317   28/04/2009

    thuy_dhl
    thuy_dhl

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:30/10/2008
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 15
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Những thành quả lập pháp của nhà nước phong kiến Việt nam?

    xin moi người trả lời giùm :Khái quát những thành quả lập pháp của nhà nước phong kiến Việt nam?
    Cập nhật bởi LawSoft02 ngày 12/03/2010 06:18:22 PM
     
    Báo quản trị |  
  • #17318   07/01/2009

    anh_tuan351
    anh_tuan351
    Top 500
    Chồi

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:10/09/2008
    Tổng số bài viết (222)
    Số điểm: 1403
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 9 lần


    Những thành quả lập pháp của nhà nước phong kiến Việt nam?

    thuy_dhl viết:
    xin moi người trả lời giùm :Khái quát những thành quả lập pháp của nhà nước phong kiến Việt nam?

    Những vụ án dân sự thích xử thế nào cũng được, những vụ án hình sự có nhiều yếu tố tiềm ẩn oan sai và những vụ án Hành chính không biết xử thế nào cho phải. Hơi tiêu cực một chút các bác thông cảm nhe
    Cập nhật bởi LawSoft02 ngày 12/03/2010 06:16:27 PM
     
    Báo quản trị |  
  • #17319   09/01/2009

    trathainguyen
    trathainguyen
    Top 500
    Mầm

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/09/2008
    Tổng số bài viết (155)
    Số điểm: 989
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 10 lần


    Thành quả lập pháp của nhà nước phong kiến Việt Nam được thể hiện rõ qua các bộ luật.

    Đặc biệt là bộ Quốc Triều hình luật(luật Hồng Đức), Quốc triều khám tụng điều lệ - hai bộ luật này đều là của triều Lê, Hoàng việt luật lệ (Luật Gia Long)-triều Nguyễn.Bạn có thể tìm đọc thêm cuốn "Cổ Luật Việt Nam thông khảo"-1970 cuả giáo sư Vũ Văn Mẫu.

    http://www.sungroup.com.vn

     
    Báo quản trị |  
  • #17320   28/04/2009

    huongduong78
    huongduong78

    Sơ sinh

    Hưng Yên, Việt Nam
    Tham gia:28/04/2009
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Mình đang làm tiểu luận về nhà nước và pháp luật phong kiến xin mọi người giúp mình về tài liệu với~3cbr /~3e cảm ơn nhiều~3cbr /~3e
     
    Báo quản trị |  
  • #17305   20/11/2009

    Quy_Con
    Quy_Con

    Sơ sinh

    Đồng Nai, Việt Nam
    Tham gia:26/11/2008
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 5
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Đặc điểm pháp luật phong kiến?

    Có thể trả lời giúp tôi về đặc điểm pháp luật phong kiến, đặc biệt là phong kiến VN được không? Tôi xin cảm ơn.
     
    Báo quản trị |  
  • #17306   23/11/2008

    anhtuan1452003
    anhtuan1452003

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2008
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 15
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Điểm đặc sắc và tiến bộ trong pháp luật dân sự phong kiến việy nam.

    Phân tích điểm đặc sắc và tiến bộ trong pháp luật dân sự phong kiến việy nam.mng được giúp đỡ.
     
    Báo quản trị |  
  • #17307   04/12/2008

    thuy_dhl
    thuy_dhl

    Sơ sinh

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:30/10/2008
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 15
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Những hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc đối với nhà nước và pháp luật phong kiến việt nam?

    Những hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc đối với nhà nước và pháp luật  phong kiến việt nam?

    Em đang ôn thi cuối kỳ môn này nhưg khôg trả lời được câu hỏi trên.

    Mong được các Luật sư giúp đỡ.
     
    Báo quản trị |  
  • #17308   04/12/2008

    anhtuan1452003
    anhtuan1452003

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2008
    Tổng số bài viết (7)
    Số điểm: 15
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    pháp luật phong kiến Việt Nam kết hợp những yếu tố Trung Quốc và yếu tố đặc thù

    pháp luật phong kiến Việt Nam kết hợp những yếu tố Trung Quốc và yếu tố đặc thù?
     
    Báo quản trị |