Tư Vấn Của Luật Sư: LS. ThS Nguyễn Nhật Tuấn - NguyenNhatTuan

164 Trang 12345>»
  • Xem thêm     

    02/10/2024, 04:31:59 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Vấn đề bạn hỏi, luật sư có ý kiến như sau:

    Bạn đang làm việc theo chế độ HĐLĐ trong doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, tức quan hệ lao động của bạn đang được điều chỉnh bằng Bộ luật lao động 2019 và các văn bản dưới luật hướng dẫn. 

    Nếu bạn muốn chuyển sang làm viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập thì bạn phải chấm dứt HĐLĐ với doanh nghiệp bạn đang làm việc để nộp hồ sơ xin tuyển dụng vào các đơn vị sự nghiệp công lập. Khi đó, tùy theo nhu cầu công việc, trình độ chuyên môn và năng lực của bạn mà đơn vị sự nghiệp công lập có thể tuyển dụng bạn vào làm việc theo quy định của Luật viên chức.

    Thân mến!

     

  • Xem thêm     

    30/03/2024, 10:02:35 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào em!

    Theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự thì nếu em đang là lao động duy nhất trong gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng thành viên trong gia đình không còn khả năng lao động thì em sẽ được tạm hoãn gọi nhập ngũ. 

    Theo nội dung em trình bày thì gia đình em chỉ có hai người: em và mẹ đã trên 68 tuổi không còn khả năng lao động nên em có thể làm đơn trình bày gồi đến Hội đồng nghĩa vụ quan sự địa phương để xin đươc tạm hoãn gọi nhập ngũ theo quy định em nhé.

    Chúc em thành công

    Thân mến!

  • Xem thêm     

    25/02/2024, 10:37:42 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thời hiệu xử lý bồi thường thiệt hại đối với người lao động thì thời hiệu xử lý bồi thường thiệt hại là 06 tháng kể từ ngày người lao động có hành vi làm hư hỏng, làm mất dụng cụ, thiết bị hoặc làm mất tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép.

    Như vậy, trường hợp của bạn tuy vô ý làm mất tài sản của công ty trị giá 170 tr nhưng đã quá 6 tháng trôi qua nhưng công ty không tiến hành trình tự và thủ tục xử lý yêu  cầu bồi thường thiệt hại theo quy đụnh thì nay không thể yêu cầu bạn bồi thường nữa vì đã hết thời hiệu xử lý, giả quyết.

    Thân mến

     

  • Xem thêm     

    17/02/2024, 10:19:15 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Theo nội dung bạn trình bày thì gia đình bạn chỉ có hai người: bạn và mẹ già đã 68 tuổi. Như vậy, do bạn đang là lao động duy nhất trực tiếp nuôi dưỡng mẹ già đã hết tuổi lao động, không có khả năng lao động nên bạn được tạm hoãn gọi nhập ngũ.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    23/11/2023, 11:01:59 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Việc nâng lương là theo nội dung quy chế nâng lương của đơn vị mà thực hiện nên không lệ thuộc vào việc cải cánh hay không cải cách. Việc cải cách (nếu có) là chính sánh, đường lối chung về tiền lương trong điều kiện kinh tế và tình hình sinh hoạt sao cho phù hợp để đảm bảo việc trả lương đi vào thực tiễn cuộc sống, giữ chân được người tài và phát huy được súc mạnh của nguồn lực xã hội. Còn chi tiết thế nào thì từng ngành, lĩnh vực, khu vực sẽ có những quy định riêng phù hợp chính sách chung. Do vậy, không thể nói rằng khi cải cảnh lương thì người có thâm niên 13 năm cũng có tiền lương bằng người có thâm niên 15 hay 20 năm bạn nhé.

    Thân mến

     

  • Xem thêm     

    23/11/2023, 10:46:56 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Luật sư tư vấn như sau:

    1/ Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật lao động năm 2019 thì hiện nay không có loại hợp đồng lao động thời vụ/mùa vụ nữa mà chỉ có hai loại: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng xác định thời hạn đến 36 tháng. 

    Như vậy, đối với loại hợp đồng lao động bạn đang ký với lao động có thời hạn 04 tháng được xem là hợp đồng lao động xác định thời hạn.

    2/ Theo quy định hiện nay thì khi bạn giao kết hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên thì bạn phải kê khai và tham gia BHXH cho người lao động theo quy định củ Luật HHXH.

    3/ Khi chi trả thu nhập hàng tháng cho người lao động thì bản phải tạm khấu trừ thuế TNCN 10% để nộp cho Nhà nước và cung cấp chứng từ khấu trừ thuế TNCN để người lao động tiến hành thủ tục hoàn thuế sau khi hết thời hạn 04 tháng mà hai bên không ký gia hạn hợp đồng lao động.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    06/11/2023, 04:46:34 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Không rõ bạn muốn nói phụ cấp KTT trong khối nào: Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập hay cơ quan hành chính Nhà nước? Nếu là trong các doanh nghiệp thì phụ cấp KTT là phụ cấp quản lý (chức vụ) trong doanh nghiệp nên phụ cấp này sẽ được nhân với mức lương căn bản để tính vào tiền lương hàng tháng để nhận chứ không nhân với phụ cấp công vụ gì đâu bạn.

    Thân mến!

  • Xem thêm     

    07/08/2023, 05:40:17 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào em.

    Việc tham gia BHXH phải dựa trên cơ sở đã ký kết hợp đồng lao động nên nếu công ty không ký kết hợp đồng lao động mà lại tham gia đóng BHXH là chuyện không tưởng nên em cần xem lại có thật sự như thế không nhé.

    Vì em chứ ký kết hợp đồng lao động nên giữa em và công ty chưa có cơ sở pháp lý để chứng minh là giữa hai bên đã phát sinh quan hệ lao động nên ếu em nghĩ ngang thì công ty cũng không thể cho rằng em đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được. Tuy nhiên, em cũng lưu ý rằng nếu em nghĩ ngang mà chưa nnha65n được lương thì công ty vẫn có quyền giữ tiền lương của em lại để làm khó em đấy nhé.

    Thân mến

     

  • Xem thêm     

    07/08/2023, 05:35:19 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào em.

    Các loại quỹ này không phải là những khoản đóng góp bắt buộc đối với đối tượng là viên chức trong các đơn vị hành chính sự nghiệp như em nói  mà là những khoản mang tính tự nguyện đóng góp tùy theo tình hình phát động, triển khai của tứng địa phương và kết quả hoạt động của từng đơn vị em nhé.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    07/08/2023, 05:29:10 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào em!

    1/ Trước tiên thì văn bản mà em đã ký không phải là hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động mà chỉ là biên bản cam kết làm việc do đơn vị soạn sẵn ra để hai bên ký vào. Biên bản này chỉ có giá trị tham chiếu nội bộ chứ không là cơ sở pháp lý để chứng minh quan hệ lao động của hai bên.

    2/ Về thẩm quyền của người ký thì em đã ký với người không phải là người sử dụng lao động. Theo quy định thì người sử dụng lao động phải là người đại diện theo pháp luật của đơn vị hoặc là người được người đại diện theo pháp luật của đơn vị ủy quyền. Do không có ủy quyền của chủ đơn vị nên người chị gái của chủ đơn vị không phải là người có thẩm quyền để giao kết quan hệ lao động với em.

    Do đó, biên bản làm việc này không có giá trị như hợp đồng lao động và vì thế, các nội dung ràng buộc bất lợi như em nói không có tính pháp lý để ràng buộc đối với em.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    10/07/2023, 06:07:18 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn!

    Nếu tại thời điểm bạn nghỉ sinh con đã tham gia từ đủ 6 tháng trở lên BHXH bắt buộc trong thời gian 12 tháng trước khi sinh là đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản. Thủ tục hưởng chế độ thai sản do người sử dụng lao động thực hiện và nộp cho cơ quan BHXH để người lao động được hưởng, người lao động chỉ cần cung cấp giấy chứng sinh và giấy khai sinh con là đủ hồ sơ để hưởng chế độ thai sản. Tuy nhiên, đó là trong trường hợp người sử dụng lao động có trích nộp BHXH đầy đủ, liên tục và làm đầy đủ các thủ tục hồ sơ khi tham gia BHXH cho NLĐ. Trường hợp nếu đơn vị còn nợ BHXH thì quy định hiện nay cho phép người sử dụng lao động được tạm đóng trước tiền tham gia BHXH của người lao động cần giải quyết chế độ để cơ quan BHXH làm thủ tục cho NLĐ hưởng trước, đảm bảo quyền lợi co NLĐ cần giải quyết, còn những trường hợp nợ BHXH khác sẽ tính sau.

    Do vậy, để giải quyết chế độ thai sản của bạn thì bạn phải yêu cầu công ty trích nộp tiền BHXH của 7 tháng mà bạn đã tham gia, công ty đã trích trừ lương của bạn nhưng chưa nộp về BHXH để giải quyết quyền lợi thai sản cho bạn. Trường hợp công ty ko giải quyết thì bạn có quyền khởi kiện công ty để yêu cầu tòa án giải quyết cho bạn.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    23/04/2023, 04:25:25 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Tại Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2012/TTLT-BYT-BNV-BTC có hiệu lực từ ngày 05/03/2012 có quy định:

    "Điều 5. Cách tính và nguồn kinh phí chi trả phụ cấp ưu đãi theo nghề

    1. Cách tính

    a) Mức phụ cấp ưu đãi theo nghề được tính trên mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có), được xác định bằng công thức sau:

    Mức tiền phụ cấp ưu đãi theo nghề được hưởng = Mức lương tối thiểu chung x [Hệ số lương ngạch, bậc hiện hưởng + hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo (nếu có) + % (quy theo hệ số) phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)] x Mức phụ cấp ưu đãi theo nghề được hưởng

    Ví dụ: Bà Trần Thị A là điều dưỡng trưởng khoa của bệnh viện Tâm thần TW2, đang hưởng lương ngạch điều dưỡng trung cấp, mã số ngạch 16b.121, bậc 12, hệ số lương 4,06 và hưởng 7% phụ cấp thâm niên vượt khung, hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo 0,4. Mức phụ cấp ưu đãi theo nghề tháng 09/2011 của bà A như sau:

    Tiền phụ cấp ưu đãi theo nghề 1 tháng = 830.000 đồng x [4,06 + 0,4 + (4,06 x 7%)] x 70% = 2.756.802 đồng

    b) Phụ cấp ưu đãi theo nghề được tính trả cùng kỳ lương hàng tháng.

    c) Phụ cấp ưu đãi theo nghề không dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế".

    Như vậy, mức phụ cấp này tính trên cơ sở của mức lương tối thiểu chung chứ không phải tính trên mức lương cơ sở bạn nhé.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    23/04/2023, 04:16:24 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Trước tiên là người lao động này đang trên đường thực hiện nhiệm vụ công việc theo yêu cầu của đơn vị và bị tai nạn giao thông. Tuy có lỗi trong việc gây ra tai nạn nhưng cũng được xem đây là TNLĐ trong trường hợp NLĐ có lỗi.

    Bạn hãy tham khảo các quy định trích dẫn dưới đây từ Luật an toàn, vệ sinh lao động 2015 để biết quyền lợi của NLĐ bị TNLĐ trong trường hợp có lỗi được hưởng như thế nào nhé:

    Điều 38. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

    Người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:

    1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;

    2. Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:

    a) Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;

    b) Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;

    c) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;

    3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;

    4. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau:

    a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

    b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

    5. Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;

    6. Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật;

    7. Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;

    8. Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;

    9. Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này;

    10. Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.

    11. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều này.

    Điều 39. Trách nhiệm của người sử dụng lao động về bồi thường, trợ cấp trong những trường hợp đặc thù khi người lao động bị tai nạn lao động

    1. Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động theo quy định tại khoản 4 Điều 38 của Luật này.

    2. Trường hợp người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động trợ cấp cho người lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 38 của Luật này.

    3. Trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này, thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này.

    4. Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định tại Điều 38 của Luật này, người sử dụng lao động phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này khi người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên, trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của người lao động.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    23/04/2023, 03:59:36 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Theo thông lệ thì phép năm nào giải quyết năm đó hoặc chậm nhất là trong quý 1 của năm liền kề.

    Ví dụ: Phép năm 2022 được giải quyết chậm nhất là hết qu1y 1/2023. Như vậy, bước sang quý 2/2023 sẽ không giải quyết phép của năm 2022 nữa. Việc này hàu như được quy định trong nội quy lao động và thỏa ước lao động tập thể các công ty.

    Đối với ông A bạn nêu thì nếu phép năm 2022 ông A chưa nghỉ hết thì công ty sẽ thanh toán tiền pháp năm cho ông A của những ngày chưa nghỉ phép năm 2022 chậm nhất là trong quý 1/2023 cùng với 3 ngày phép tương ứng với 3 tháng làm việc của ông A trong quý 1/2023.

    Thân mến

  • Xem thêm     
  • Xem thêm     

    05/12/2021, 09:49:14 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Theo quy định nếu thời gian làm việc đủ 12 tháng thì sẽ được hưởng 12 ngày phép năm có hưởng lương. Thời gian tổ chức nghỉ phép năm do hai bên thỏa thuận để không làm ảnh hưởng đến công việc và đáp ứng nhu cầu nghỉ phép năm của người lao động. Do vậy, về nguyên tắc thì số ngày nghỉ phép năm nào sẽ giải quyết trong năm đó hoặc không quá quý 1 của năm tiếp theo. Trường hợp số ngày phép năm người lao động chưa nghỉ hết thì có thể giải quyết trả bằng tiền hoặc cộng dồn vào phép của năm tiếp theo đều được.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    30/11/2021, 11:19:49 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Ý kiến tư vấn của luật sư như sau:

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 98 Bộ luật lao động năm 2019 thì tiền lương thêm giờ tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm. Như vậy, nếu doanh nghiệp đã xây dựng được đơn giá tiền lương thì lương thêm giơ tính theo đơn giá tiền lương. Nếu doanh nghiệp chưa xây dựng đơn giá tiền lương thì lương thêm giờ tính theo lương thực trả của công việc.

    Theo trình bày của bạn thì công ty đang hướng việc trả lương thêm giờ theo lương căn bản chứ ko theo lương thực lãnh chứng tỏ công ty chưa xây dựng và thông qua được đơn giá tiền lương cho mỗi chức danh công ty. Do vậy, công ty phải tính lương thêm giờ dựa trên lương thực lãnh của người lao động chứ không được tính trên lương căn bản vì như vậy tiền lương của mỗi giờ làm thêm giờ sẽ thấp hơn tiền lương của giờ làm việc bình thường là không hợp lý.

    Thân mến

     

     

  • Xem thêm     

    01/11/2021, 05:03:38 CH | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.
     
    Bộ luật lao động hiện hành cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định sau đây:
     
    Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
     
    1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
     
    a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
     
    b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
     
    c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
     
    d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
     
    2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
     
    a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
     
    b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
     
    c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
     
    d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
     
    đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
     
    e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
     
    g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
     
    Như vậy, trừ lý do quy định tại khoản 2 điều này (đơn phương chấm dứt không cần thông báo trước thời gian) thì các trương hợp còn lại người lao động muốn đơn phương chấm dứt tuy không cần thông báo lý do nhưng phải chấp hành thông báo vê thời gian. Trường hợp hợp đồng lao động có thời hạn 24 tháng thì thời gian báo trước cho công ty theo quy định là ít nhất 30 ngày mới được chấm dứt. Do đó, việc nghỉ việc ngay mà không chấp hành thời gian thông báo trước là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy  định tại điều 39 và phải có trách nhiệm theo quy định sau đây:
     
    Điều 40. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
     
    1. Không được trợ cấp thôi việc.
     
    2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
     
    3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
     
    Thân mến!
     
  • Xem thêm     

    22/10/2021, 11:41:27 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào bạn.

    Khi bạn tự làm thủ tục hưởng trợ cấp BHTN do dịch bệnh Covid - 19 theo tinh thần nghị quyết 116, 68 bạn phải nói rõ là bạn đã nghỉ việc, chấm dứt HĐLĐ tại Công ty (có quyết định chấm dứt) và đã được Công ty chốt sổ BHXH  trả cho bạn thì cơ quan BHXH mới giải quyết hồ sơ cho bạn với tư cách cá nhân mà không cần thông qua công ty nữa. Nếu bạn không nói rõ những vấn đề này thì cơ quan BHXH hiểu rằng bạn đang ngừng việc, tạm dừng thực hiện hợp đồng lao động vì dịch bệnh covid chứ chưa phải là chấm dứt quan hệ lao động nên dĩ nhiên bạn còn là nhân viên của công ty thì công ty phải lập danh sách và nộp hồ sơ cho bạn.

    Do vậy, nếu bạn đã chấm dứt hợp đồng lao động thì phải yêu cầu công ty có quyết định chấm dứt và chốt sổ BHXH trả cho bạn để bạn nộp hồ sơ với tư cách cá nhân đến cơ quan BHXH xin hưởng chế độ nhé.

    Thân mến

  • Xem thêm     

    21/10/2021, 10:10:58 SA | Trong chuyên mục Lao động

    NguyenNhatTuan
    NguyenNhatTuan
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/11/2009
    Tổng số bài viết (10494)
    Số điểm: 58149
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 4572 lần


    Chào em.

    Chỉ được nhận hỗ trợ 1  chế độ mà thôi.

    Về thủ tục thì chờ BHXH gởi danh sách về công ty để thực hiện hồ sơ hoặc cũng có thể liên hệ trực tiếp tại BHXH đều được nếu thấy lâu mà không động tĩnh gì.

    Thân mến

     

164 Trang 12345>»