Tư Vấn Của Luật Sư: Võ Thị Hồng Hạnh - LsVothihonghanh

Luật sư đã tư vấn:

  • Xem thêm     

    11/11/2024, 03:34:48 CH | Trong chuyên mục Lao động

    LsVothihonghanh
    LsVothihonghanh

    Luật sư địa phương

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:18/07/2019
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 10
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 1 lần


    Chào bạn, 

    Theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014 hiện đang áp dụng thì bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ có 02 chế độ là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất, không có chế độ thai sản nên nếu bạn có tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ không được hưởng chế độ thai sản. Tuy nhiên, Luật Bảo hiểm xã hội 2024 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025) thì trường hợp tham gia BHXH tự nguyện cũng sẽ được hưởng chế độ thai sản nếu đủ điều kiện theo quy định. Cụ thể về điều kiện hưởng như sau:

    "Điều 94. Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp thai sản

    1. Đối tượng có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hoặc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con được hưởng trợ cấp thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ sinh con;

    b) Lao động nam có vợ sinh con.

    2. Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp thai sản.

    3. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản quy định tại khoản 1 Điều này thì chỉ cha hoặc mẹ được hưởng trợ cấp thai sản.

    4. Trường hợp người quy định tại khoản 1 Điều này vừa có đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện và vừa có đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc thì chỉ được hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc.

    5. Trường hợp mẹ đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc, cha đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện thì mẹ được hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc và cha được hưởng trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện.

    6. Trường hợp cha đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc, mẹ đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện thì cha được hưởng chế độ thai sản trong bảo hiểm xã hội bắt buộc và mẹ được hưởng trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội tự nguyện."

    Lưu ý phải thuộc đối tượng và đủ điều kiện hưởng thì mới được hưởng. Mức trợ cấp như sau:

    "Điều 95. Trợ cấp thai sản

    1. Mức trợ cấp thai sản là 2.000.000 đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ.

    Lao động nữ là người dân tộc thiểu số hoặc lao động nữ là người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo khi sinh con còn được hưởng chính sách hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.

    2. Ngân sách nhà nước bảo đảm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này. Chính phủ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp thai sản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ."

    Như vậy, mức trợ cấp thai sản là 2.000.000 đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ. Và tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ thì mức trợ cấp thai sản được Chính phủ điều chỉnh cho phù hợp.

    Trân trọng! 

  • Xem thêm     

    09/11/2024, 11:06:08 SA | Trong chuyên mục Kế toán, Thuế

    LsVothihonghanh
    LsVothihonghanh

    Luật sư địa phương

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:18/07/2019
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 10
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 1 lần


    Chào bạn, 

    Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn, về vấn đề của bạn tôi xin trả lời dựa trên những dữ kiện bạn cung cấp như sau:

    Căn cứ Khoản 11 Điều 26 Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định:

    "11. Khai thuế từ tiền lương, tiền công đối với thu nhập từ thưởng bằng cổ phiếu.

    Cá nhân khi nhận thưởng bằng cổ phiếu từ đơn vị sử dụng lao động chưa phải nộp thuế từ tiền lương, tiền công. Khi cá nhân chuyển nhượng cổ phiếu thưởng thì khai thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng cổ phiếu và thu nhập từ tiền lương, tiền công."

    Như vậy, khi doanh nghiệp thưởng cổ phiếu cho người lao động thì khoản thu nhập này được xác định là thu nhập chịu thuế từ tiền lương tiền công.

    Tuy nhiên, người lao động chưa phải nộp thuế thu nhập từ tiền lương tiền công ngay tại thời điểm được nhận thưởng bằng cổ phiếu từ doanh nghiệp, chỉ khi nào người lao động chuyển nhượng cổ phiếu thưởng thì mới phải khai thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng cổ phiếu và thu nhập từ tiền lương, tiền công.

    Đối chiếu với trường hợp của bạn, tại thời điểm bạn nhận cổ phiếu thưởng vào năm 2022, bạn chưa phải nộp thuế TNCN từ tiền lương, tiền công. Đến năm 2024, bạn chuyển nhượng cổ phiếu thưởng thì sẽ tiến hành khai thuế TNCN đối với hai khoản thu nhập, cụ thể:

    - Thu nhập từ tiền lương, tiền công do được nhận cổ phiếu thưởng

    - Thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần.

    Việc khấu trừ thuế TNCN từ tiền lương, tiền công thực hiện theo quy định tại Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC như sau:

    "Điều 25. Khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế

    1. Khấu trừ thuế

    Khấu trừ thuế là việc tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện tính trừ số thuế phải nộp vào thu nhập của người nộp thuế trước khi trả thu nhập, cụ thể như sau:

    ...

    i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác

    Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.

    Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.

    Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế.

    Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.

    ..."

    Tại thời điểm bạn chuyển nhượng cổ phiếu thưởng bạn đã nghỉ việc tại công ty do đó sẽ thuộc đối tượng tại điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC nên công ty tiến hành khấu trừ thuế TNCN 10% trên giá trị cổ phiếu thưởng bạn nhận được. Thời điểm bạn được công ty thưởng cổ phiếu giá trị cổ phiếu là 60USD/cổ phiếu do đó số thuế TNCN từ tiền lương, tiền công bạn phải nộp là 10%*40*60 USD.

    Như vậy, công ty xác định số thuế TNCN từ tiền lương, tiền công mà công ty khấu trừ của bạn 10%*40*60 USD là phù hợp với quy định hiện hành.

    Trân trọng!