Chào bạn,
Thắc mắc của bạn, tôi giải đáp các vấn đề pháp lý sau đây:
1. Lãi suất thỏa thuận 3%/tháng là không phù hợp với quy định của pháp luật
Theo quy định tại khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 thì:
“Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.
Theo quy định trên thì lãi suất thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Theo thông tin bạn cung cấp, anh T và chị H thỏa thuận lãi suất 3%/tháng (tương đương 36%/năm) là vượt quá 20%/năm (vượt 16%/năm).
Do đó phần lãi suất vượt quá (16%/năm) sẽ không có hiệu lực; chỉ có hiệu lực phần 20%/năm.
2. Chị H phải trả cho anh T tổng số tiền bao nhiêu?
Theo thông tin bạn cung cấp thì chị H đã vi phạm thỏa thuận vay với anh T.
Chị H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh T theo quy định tại khoản 1 và điểm b, khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015.
“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Cụ thể chị H phải tra cho anh T các khoản tiền sau đây:
a) Tiền gốc: 900 triệu đồng
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn:
Theo quy định tại điểm b, khoản 5, Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 thì ngoài khoản tiền gốc thì chị H còn phải trả cho anh T số tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả.
Lãi suất vay theo hợp đồng là 20%/năm, tương đương 1,66%/tháng. (Phần vượt quá 16%/năm không tính).
Thời gian chậm trả là 6 tháng (tính từ cuối tháng 06/2020 - ngày hết hạn trả nợ đến thời điểm khởi kiện cuối năm 2020) là 06 tháng.
Số tiền lãi trên nợ gốc quá hạn là:
150% x 1,66%/tháng x 900 triệu x 06 tháng = 134.460.000 đồng
Lưu ý:
Anh T đã nhận khoản tiền lãi 3%/tháng = 36%/năm trong 02 năm, tương đương khoản tiền 648.000.000 đồng. Số tiền này phải được trừ đi phần vượt quá (16%/năm) vào nợ gốc.
Số tiền phải trừ là: 16% x 900 triệu x 02 = 288.000.000 đồng
Vậy, tính đến thời điểm khởi kiện, chị H phải trả cho anh T tổng số tiền là:
900.000.000 đồng + 134.460.000 đồng - 288.000.000 đồng = 746.460.000 đồng.
Các số liệu tính toán trên đây chỉ mang tính tương đối, trên cơ sở thông tin bạn cung cấp; và chỉ tạm tính đến thời điểm khởi kiện. Thực tế tố tụng thì số tiền lãi yêu cầu được tính đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm.
Ngoài các quy định của pháp luật nêu trên, bạn có thể tham khảo Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để hiểu chi tiết.
Thân mến.