Tư Vấn Của Luật Sư: BẠCH DIỆU ÁI - lsbachdieuai

Luật sư đã tư vấn:

  • Xem thêm     

    14/12/2024, 11:15:27 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào anh, 

    Đối với vấn đề của anh, Luật sư có ý kiến như sau:

    Theo quy định tại Điều 26 Luật Cư trú 2020 khi thay đổi chủ hộ thì thành viên hộ gia đình nộp hồ sơ theo quy định tại khoản 2 Điều này đến cơ quan đăng ký cư trú (cơ quan công an cấp xã/phường) để yêu cầu điều chỉnh thông tin. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm điều chỉnh thông tin về chủ hộ trong Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo cho thành viên hộ gia đình về việc đã cập nhật thông tin; trường hợp từ chối điều chỉnh thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

    Do đó, trường hợp anh đang là chủ hộ của gia đình đăng ký thường trú tại quê và có nhu cầu đăng ký thường trú ở Hà Nội nhưng vợ con vẫn thường trú tại quê thì anh thực hiện thủ tục thay đổi chủ hộ như trên, sau đó thực hiện thủ tục đăng ký thường trú tại cơ quan đăng ký cư trú ở Hà Nội. Hồ sơ, thủ tục đăng ký thường trú anh thực hiện theo Điều 20, 21 Luật Cư trú 2020.

    Thông tin gửi đến anh!

  • Xem thêm     

    06/12/2024, 10:26:46 SA | Trong chuyên mục Lao động

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn,

    Về vấn đề này, tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 quy định:

    “Điều 41. Tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ

    1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

    b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;”

    Như vậy, nếu thuộc trường hợp là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động thì mới được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, để xem xét có thuộc trường hợp này hay không thì còn phải phụ thuộc vào việc xác minh trên thực tế, bạn cần chủ động liên hệ thêm với Ban chỉ huy quân sự cấp xã, cấp huyện để được hướng dẫn, trả lời chính xác cho trường hợp của mình.

    Thông tin trao đổi cùng bạn!  

  • Xem thêm     

    30/11/2024, 02:33:15 CH | Trong chuyên mục Lao động

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn,

    Căn cứ theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019 về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động thì người lao động phải cung cấp thông tin liên quan đến tình trạng sức khỏe thì việc công ty yêu cầu phải có giấy khám sức khỏe là phù hợp với quy định. Việc bạn không cung cấp để các thông tin theo yêu cầu của người sử dụng lao động thì không đảm bảo đủ hồ sơ để nhận việc. Cụ thể:

    "Điều 16. Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động

    ...

    2. Người lao động phải cung cấp thông tin trung thực cho người sử dụng lao động về họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ kỹ năng nghề, xác nhận tình trạng sức khỏe và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động yêu cầu."

    Ngoài cung cấp thông tin về sức khỏe thì người lao động cần phải cung cấp họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú (xác nhận thông tin cư trú), trình độ học vấn, trình độ kỹ năng nghề (bằng cấp) và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động yêu cầu.

  • Xem thêm     

    22/11/2024, 03:27:07 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn, 

    Hiện nay theo pháp luật Việt Nam thì có Văn bản hợp nhất 07/VBHN-BTC năm 2019 hợp nhất Nghị định về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế do Bộ Tài chính ban hành. Theo như thông tin bạn cung cấp thì doanh nghiệp này có giấy phép, nếu giấy phép này đảm bảo được cấp theo quy định tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-BTC và các hoạt động đảm bảo đúng quy định tại văn bản trên việc bạn chỉ làm chăm sóc khách hàng thì sẽ không có vấn đề gì. Tuy nhiên, bạn cũng cần lưu ý công ty này hoạt động hợp pháp, tránh trường hợp công ty không đảm bảo giấy phép, hoạt động trái phép thì mình thực hiện công việc cũng có rủi ro, bạn nên cân nhắc kỹ trước khi quyết định về việc làm này.

    Thông tin trao đổi cùng bạn!  

     

  • Xem thêm     

    19/11/2024, 04:55:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn, 

    Nếu đo đạc lại mà phát hiện có diện tích đất tăng thêm, đồng thời có sự thay đổi ranh giới đất thì cơ quan căn cứ Điều 24 Nghị định 101/2024/NĐ-CP để xem xét cấp giấy chứng nhận:

    "Điều 24. Xử lý việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất có diện tích tăng thêm do thay đổi ranh giới so với giấy tờ về quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận đã cấp

    1. Trường hợp thửa đất gốc (thửa đất chưa có diện tích tăng thêm) có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì xử lý như sau:

    a) Trường hợp phần diện tích tăng thêm có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì loại đất, diện tích để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được xác định đối với thửa đất gốc và phần diện tích tăng thêm theo quy định tại Điều 141 của Luật Đất đai;

    b) Trường hợp phần diện tích tăng thêm do nhận chuyển quyền sử dụng một phần thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận nhưng đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật thì loại đất, diện tích để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được xác định đối với thửa đất gốc theo quy định tại Điều 141 của Luật Đất đai và phần diện tích tăng thêm theo Giấy chứng nhận đã cấp; cơ quan có chức năng quản lý đất đai cấp huyện chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (sau đây gọi chung là Văn phòng đăng ký đất đai) để thực hiện việc chỉnh lý Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền theo quy định;

    c) Trường hợp phần diện tích tăng thêm không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản này nếu đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định tại các điều 138, 139 và 140 của Luật Đất đai thì loại đất, diện tích để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được xác định đối với thửa đất gốc theo quy định tại Điều 141 của Luật Đất đai và phần diện tích tăng thêm được xác định theo quy định tại các điều 138, 139 và 140 của Luật Đất đai;

    d) Trình tự, thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với toàn bộ diện tích đất đang sử dụng được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 31 và Điều 36 của Nghị định này.

    2. Trường hợp thửa đất gốc đã có Giấy chứng nhận thì xử lý như sau:

    a) Trường hợp phần diện tích tăng thêm do nhận chuyển quyền sử dụng một phần thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận nhưng đến trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật thì thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho toàn bộ diện tích của thửa đất đang sử dụng; Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc chỉnh lý Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất theo quy định;

    b) Trường hợp phần diện tích tăng thêm có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì loại đất, diện tích để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là toàn bộ thửa đất gốc và phần diện tích tăng thêm được xác định theo quy định tại Điều 141 của Luật Đất đai;

    c) Trường hợp phần diện tích tăng thêm không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản này nếu đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định tại các điều 138, 139 và 140 của Luật Đất đai thì thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho toàn bộ diện tích thửa đất đang sử dụng; loại đất, diện tích để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được xác định đối với thửa đất gốc theo Giấy chứng nhận đã cấp và phần diện tích tăng thêm được xác định theo quy định tại các điều 138, 139 và 140 của Luật Đất đai;

    d) Trình tự, thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với toàn bộ diện tích đất đang sử dụng được thực hiện theo quy định tại Điều 37 của Nghị định này.

    3. Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, chuyển mục đích sử dụng đất, hợp thửa đất đối với diện tích tăng thêm."

    Như vậy, tùy vào thửa đất gốc có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 Luật Đất đai 2024 hay thửa đất gốc đã có Giấy chứng nhận mà áp dụng quy định khác nhau để xem xét cấp giấy chứng nhận cho phần diện tích tăng thêm.

    Thông tin trao đổi cùng bạn! 

  • Xem thêm     

    14/11/2024, 05:06:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn, 

    Căn cứ khoản 4 Điều 170 Luật Nhà ở 2023 quy định:

    "Điều 170. Thời hạn thuê, giá thuê, cho thuê lại nhà ở

    ...

    4. Bên thuê có quyền cho thuê lại nhà ở mà mình đã thuê nếu được bên cho thuê đồng ý."

    Căn cứ Điều 172 Luật Nhà ở 2023 quy định:

    "Điều 172. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở

    ...

    2. Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Bên cho thuê nhà ở thuộc tài sản công, nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhà lưu trú công nhân trong khu công nghiệp cho thuê không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tượng hoặc không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về nhà ở;

    b) Bên thuê không trả đủ tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng từ 03 tháng trở lên mà không có lý do đã được thỏa thuận trong hợp đồng;

    c) Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng;

    d) Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;

    đ) Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê;

    e) Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục;

    g) Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 170 của Luật này.

    ...

    4. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở phải thông báo bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận trong hợp đồng cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; trường hợp vi phạm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật."

    Căn cứ Điều 472 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 472. Hợp đồng thuê tài sản

    Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.

    ..."

    Căn cứ Điều 475 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 475. Cho thuê lại

    Bên thuê có quyền cho thuê lại tài sản mà mình đã thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý."

    Căn cứ Điều 478 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 478. Nghĩa vụ bảo đảm quyền sử dụng tài sản cho bên thuê

    1. Bên cho thuê phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê.

    2. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản thuê mà bên thuê không được sử dụng tài sản ổn định thì bên thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại."

    Từ các căn cứ trên, bên thuê nhà chỉ được phép cho thuê lại nhà ở khi được bên cho thuê đồng ý. Trường hợp này, bên thuê nhà không được bên cho thuê đồng ý nhưng vẫn cho bạn thuê lại thì bên cho bạn thuê nhà đang vi phạm quy định pháp luật và vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng thuê với chủ nhà.

    Tuy nhiên, xét bản chất quan hệ giữa bạn và bên cho thuê nhà thì đây là quan hệ dân sự, mặc dù bên cho thuê đang sai phạm khi cho bạn thuê lại nhà nhưng thực tế việc cho thuê là có thật, bạn vẫn được thuê nhà cho đến thời điểm bên cho thuê chấm dứt hợp đồng nên chưa đủ cơ sở để xác định yếu tố lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Ở đây, bên cho thuê đang vi phạm thỏa thuận, vi phạm nghĩa vụ đảm bảo quyền thuê nhà của bạn, đây là quan hệ dân sự. Do đó, việc bên cho thuê vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng, đơn phương chấm dứt trái quy định pháp luật thì bạn có quyền khởi kiện bên cho thuê ra Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những thiệt hại thực tế phát sinh do hành vi trái pháp luật của bên cho thuê gây ra.

    Trân trọng! 

  • Xem thêm     

    14/11/2024, 05:05:04 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn, 

    Căn cứ khoản 4 Điều 170 Luật Nhà ở 2023 quy định:

    "Điều 170. Thời hạn thuê, giá thuê, cho thuê lại nhà ở

    ...

    4. Bên thuê có quyền cho thuê lại nhà ở mà mình đã thuê nếu được bên cho thuê đồng ý."

    Căn cứ Điều 172 Luật Nhà ở 2023 quy định:

    "Điều 172. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở

    ...

    2. Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Bên cho thuê nhà ở thuộc tài sản công, nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhà lưu trú công nhân trong khu công nghiệp cho thuê không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tượng hoặc không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về nhà ở;

    b) Bên thuê không trả đủ tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng từ 03 tháng trở lên mà không có lý do đã được thỏa thuận trong hợp đồng;

    c) Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng;

    d) Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;

    đ) Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có sự đồng ý của bên cho thuê;

    e) Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần thứ ba mà vẫn không khắc phục;

    g) Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 170 của Luật này.

    ...

    4. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở phải thông báo bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận trong hợp đồng cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; trường hợp vi phạm quy định tại khoản này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật."

    Căn cứ Điều 472 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 472. Hợp đồng thuê tài sản

    Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.

    ..."

    Căn cứ Điều 475 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 475. Cho thuê lại

    Bên thuê có quyền cho thuê lại tài sản mà mình đã thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý."

    Căn cứ Điều 478 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

    "Điều 478. Nghĩa vụ bảo đảm quyền sử dụng tài sản cho bên thuê

    1. Bên cho thuê phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê.

    2. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản thuê mà bên thuê không được sử dụng tài sản ổn định thì bên thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại."

    Từ các căn cứ trên, bên thuê nhà chỉ được phép cho thuê lại nhà ở khi được bên cho thuê đồng ý. Trường hợp này, bên thuê nhà không được bên cho thuê đồng ý nhưng vẫn cho bạn thuê lại thì bên cho bạn thuê nhà đang vi phạm quy định pháp luật và vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng thuê với chủ nhà.

    Tuy nhiên, xét bản chất quan hệ giữa bạn và bên cho thuê nhà thì đây là quan hệ dân sự, mặc dù bên cho thuê đang sai phạm khi cho bạn thuê lại nhà nhưng thực tế việc cho thuê là có thật, bạn vẫn được thuê nhà cho đến thời điểm bên cho thuê chấm dứt hợp đồng nên chưa đủ cơ sở để xác định yếu tố lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Ở đây, bên cho thuê đang vi phạm thỏa thuận, vi phạm nghĩa vụ đảm bảo quyền thuê nhà của bạn, đây là quan hệ dân sự. Do đó, việc bên cho thuê vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng, đơn phương chấm dứt trái quy định pháp luật thì bạn có quyền khởi kiện bên cho thuê ra Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những thiệt hại thực tế phát sinh do hành vi trái pháp luật của bên cho thuê gây ra.

  • Xem thêm     

    06/11/2024, 11:47:03 SA | Trong chuyên mục Lao động

    lsbachdieuai
    lsbachdieuai

    Luật sư địa phương

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:02/12/2022
    Tổng số bài viết (8)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 5 lần


    Chào bạn,

    Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân. Theo đó, công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự nếu đủ tiêu chuẩn tuyển quân và không thuộc trường hợp được tạm hoãn hoặc miễn thì phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tại điểm b khoản 1 Điều 41 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 quy định:

    "1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

    ...

    b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;"

    Như vậy, để được tạm hoãn bạn phải là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận. Với thông tin bạn nêu thì chưa thể xác định bố và mẹ bạn có còn khả năng lao động không, việc không có lương hưu không phải cơ sở xác định về khả năng lao động. Bạn liên hệ với UBND cấp xã để được hỗ trợ thêm về việc xác nhận nội dung nêu trên.

    Trân trọng!