1. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27, Bộ luật lao động, Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.
Hợp đồng lao động (HĐLĐ) mà bạn đã ký tuy có vi phạm quy định về số năm (5 năm) nhưng có xác định thời điểm chấm dứt, nên theo quan điểm của tôi, nếu hình thức và các nội dung khác không vi phạm quy định của Bộ luật lao động, thì đây là HĐLĐ có hiệu lực và là HĐLĐ xác định thời hạn. Do đó, khi bạn muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng, theo quy định tại Khoản 1, Điều 37, Bộ luật lao động, bạn phải có nghĩa vụ chứng minh rằng mình đã:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng;
b) Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng;
c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị ba tháng liền đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Thời gian báo trước cho người sử dụng lao động: Ít nhất 30 ngày làm việc kể từ ngày muốn chấm dứt HĐLĐ (Khoản 2, Điều 37, Bộ luật lao động).
3. Nếu bạn đã thực hiệm đầy đủ các thủ tục đã nêu ở trên (mục 1 & mục 2), người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có (Điều 42, Bộ luật lao động).
Luật sư Nguyễn Bình An
Email: an.nguyen@nlvlaw.com
Website: www.nlvlaw.com