Em chưa đủ thẩm quyền để đưa ra cụm từ tiếng Việt, vì Việt Nam chưa cập nhật từ này từ phương Tây ạ! Nhưng em thắc mắc, tại sao một khi cán bộ, công chức thừa nhận hành vi hành chính là trái pháp luật, lại vẫn được Tòa án bênh vực vì họ được cho là thực hiện đúng theo quy định pháp luật như dòng đỏ đỏ. Em xin dẫn chứng?
Hóa ra bạn thắc mắc tại sao người bị kiện thừa nhận mình sai mà Tòa án lại xử cho họ đúng và nghĩ rằng là Tòa án bênh vực. Bạn nghĩ vậy thì không phải rồi.
Như trong bài viết trên tôi đã nói là để xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện thì Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan đến việc ban hành quyết định hành chính, đến việc thực hiện hành vi hành đó, chứ không phải là căn cứ vào việc đương sự thừa nhận hay không thừa nhận. Ví dụ như xem xét một quyết định hành chính có hợp pháp hay không thì phải căn cứ vào các văn bản pháp luật mà người bị kiện áp dụng để ban hành quyết định hành chính đó để xem xét về mặt nội của quyết định, về thẩm quyền ban hành, về thời hiệu của quyết định, về thời hạn ban hành, về trình tự thủ tục ban hành có đúng hay không. Nếu tất cả các vấn đề trên đều đúng quy định của pháp luật, nhưng người bị khởi kiện có cho rằng mình sai ở một vấn đề nào đó nhưng họ không rút lại quyết định hành chính đã ban hành, thì Tòa án cũng không được hủy bỏ quyết định hành chính đó.
Có thể nêu một ví dụ cụ thể như sau:
- Ngày 01/6/2010 ông Trần Văn A là chủ thầu xây dựng có hành vi thi công xây dựng công trình sai nội dung giấy phép được cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Ngày 05/6/2010 ông A bị người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Biên bản ghi rõ hành vi vi phạm và yêu cầu ông A ngừng thi công công trình đang xây dựng. Ông B đã ký nhận vào biên bản thừa nhận hành vi vi phạm của mình đồng thời nhận một biện bản.
- Ngày 14/6/2010 Phó Chủ tịch UBND huyện (Nguyễn Văn B) căn cứ khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi năm 2008), điểm b khoản 1 Điều 25 Nghị định số23/2009/NĐ-CP để ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính xử phạt ông A 5.000.000 đồng.
Như vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 10, Điều 55, Điều 56 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; điểm b khoản 1 Điều 25 Nghị định23/2009/NĐ-CP thì quyết định xử lý hành chính này hoàn toàn hợp pháp về thời hiệu của quyết định, về thời hạn ban hành quyết định, về nội dung của quyết định và trình tự thủ tục ban hành quyết định.
Vấn đề còn lại là cần xem xét về tính hợp pháp về thẩm quyền ban hành. Ở đây xuất hiện tình tiết người ban hành quyết định xử phạt là Phó Chủ tịch chứ không phải là Chủ tịch UBND. Trong khi Điều 29 Pháp lệnh...; Điều 60 Nghị định số 23... đều quy định thẩm quyền thuộc về Chủ tịch và theo quy định tại Điều 41 Pháp lệnh... thì Chủ tịch có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch nhưng việc ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản.
Cho rằng ông B (Phó Chủ tịch) ban hành quyết định xử phạt mình mà không có sự ủy quyền của Chủ tịch bằng văn bản theo quy định nên ông A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy quyết định này.
Qua đối thoại ông B thừa nhận khi ban hành quyết định đó, Chủ tịch không có văn bản ủy quyền cho ông, đồng thời ông cũng nhận là mình đã sai nhưng không rút quyết định. Ông cho rằng nếu ông có rút quyết định thì Chủ tịch cũng sẽ ban hành một quyết định tương tự, chỉ khác về thời gian ban hành và người ký nên việc rút là không cần thiết.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã yêu cầu UBND huyện cung cấp toàn bộ văn bản liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình. Trong số văn bản này có Quyết định số226/QĐ-UBND ngày 05/02/2010 Về việc phân công nhiệm vụ của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Ủy viên UBND huyện Khóa XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Qua nghiên cứu quyết định này, thấy tại Điều 1 có những quy định như sau:
Điều 1. Nguyên tắc phân công và quan hệ công tác giữa Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND huyện:
Chủ tịch UBND huyện phân công Phó Chủ tịch UBND huyện giúp Chủ tịch chỉ đạo, điều hành, xử lý thường xuyên các công việc cụ thể thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND huyện trên từng lĩnh vực công tác của UBND huyện, trừ các công việc do Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo;
Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ được giao và lĩnh vực công tác được phân công, các Phó Chủ tịch UBND huyện chủ động giải quyết công việc, được thay mặt Chủ tịch, sử dụng quyền hạn của Chủ tịch để giải quyết công việc và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch.
Tại Điều 3 có những quy định như sau:
Điều 3. Phân công nhiệm vụ giữa Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND huyện như sau:
4. Phó Chủ tịch UBND huyện Nguyễn Văn B:
4.1. Trực tiếp phụ trách kinh tế, tài chính, doanh nghiệp, thương mại, du lịch. Cụ thể:
- Công tác xúc tiến đầu tư, kinh tế đối ngoại;
- Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các loại hình doanh nghiệp;
- Lĩnh vực tài chính, ngân sách, thuế, tín dụng, ngân hàng, tiến tệ, thị trường, giá cả (ngoài các vấn đề Chủ tịch UBND huyện trực tiếp chỉ đạo);
- Công tác quản lý tài sản công, quyết toán ngân sách hàng năm, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư;
- Phụ trách công tác đền bù, giải phóng mặt bằng toàn huyện; Trực tiếp chỉ đạo công tác đền bù, giải phóng mặt bằng với các dự án cụ thể thuộc lĩnh vực phụ trách.
- Lĩnh vực thương mại và dịch vụ và du lịch;
- Xử lý thường xuyên các vấn đề về công tác dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, nhân quyền;
- Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo (chủ trì và trực tiếp chỉ đạo, giải quyết tất cả các khiếu nại, tố cáo);
- Công tác thi hành án, quản lý hộ tịch, công chứng, chứng thực, xử lý hành chính, các vấn đề liên quan đến giám định tư pháp và cải chính tư pháp;
- Giúp Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo, xử lý thường xuyên các vấn đề cụ thể về thi đua khen thưởng;
- Phụ trách chung các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt đông của các Hội;
- Công tác đầu tư, xây dựng cơ bản thuộc lĩnh vực phụ trách (gồm cả thu hút đầu tư);
- Quan hệ phối hợp giữa UBND huyện với Công đoàn huyện và các Hội thuộc lĩnh vực phụ trách như Hội Luật gia, Chi hội doanh nghiệp nhỏ và vừa…
- Các công việc khác do Chủ tịch phân công.
Theo những quy định trên thì ông B được Chủ tịch UBND phân công công tác xử lý hành chính và theo như tại Điều 1 thì ông được thay mặt Chủ tịch, sử dụng quyền hạn của Chủ tịch để giải quyết công việc được phân công. Việc Chủ tịch phân công nhiệm vụ cho các Phó Chủ tịch không trái với quy định tại Điều 126 Luật tổ chức HĐND và UBND.
Như vậy Quyết định trên chính là văn bản ủy quyền thường xuyên cho phép ông Nguyễn Văn B được quyền ban hành Quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với ông A mà không cần phải có văn bản ủy quyền theo vụ việc đối với vụ việc cụ thể đó nữa. Vì vậy mà mặc dù ông B thừa nhận mình sai nhưng thực chất ông chẳng sai, cái quyết định xử phạt ông A được ban hành hoàn toàn đúng quy định của pháp luật nên Tòa án không thể ra một phán quyết hủy bỏ nó.