Luật quy định rõ bên được ủy quyền có thể ủy quyền lại cho bên thứ ba thực hiện công việc ủy quyền khi được bên ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định nhưng nội dung ủy quyền không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu và hình thức của hợp đồng ủy quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức của hợp đồng ủy quyền ban đầu (Điều 564 Bộ luật dân sự 2015)
"Điều 564. Ủy quyền lại
1. Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:
a) Có sự đồng ý của bên ủy quyền;
b) Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
2. Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
3. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu."
Người được ủy quyền lại cũng có các nghĩa vụ đối với người ủy quyền lại như của người ủy quyền lại với người ủy quyền theo Điều 565 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 565. Nghĩa vụ của bên được ủy quyền
1. Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó.
2. Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.
3. Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền.
4. Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền.
5. Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
6. Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều này."
Khi đó người được ủy quyền lại được phép thực hiện các công việc thay mặt người ủy quyền khi người đó không có mặt. Còn nếu người ủy quyền lại có mặt thì họ có thể tự thực hiện các công việc mà mình đã ủy quyền.