Hiện nay, nhiều vụ án được xét xử kín vì mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, tuy nhiên một bộ phận người dân vẫn chưa nẵm bắt, hiểu rõ quy định pháp luật về xét xử kín. Cụ thể, xét xử kín là gì? Xét xử kín trong những trường hợp nào? Xét xử nhưng tuyên án lại công khai? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan giải đáp thắc mắc này.
Xét xử kín là gì?
Xét xử kín được hiểu là không phải tất cả mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa như trường hợp xét xử công khai, nhưng phải tuyên án công khai.
Trong phiên tòa xét xử kín, chỉ có Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa, bị cáo, đương sự và những người tham gia tố tụng do Hội đồng xét xử triệu tập nếu xét thấy cần thiết. Còn lại, không một ai khác được ở lại phòng xét xử để theo dõi diễn biến phiên tòa, kể cả nhà báo hay người thân của bị cáo, đương sự.
Theo đó, điểm khác cơ bản giữa xét xử công khai và xét xử kín là hạn chế tối đa người theo dõi phiên tòa, chỉ những người được pháp luật quy định và những người tham gia tố tụng khác (do Hội đồng xét xử triệu tập).
Những trường hợp nào được xét xử kín?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định như sau:
Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
Mặt khác theo quy định tại Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp 2013 cũng quy định:
Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.
Ngoài ra, Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 còn quy định:
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng.
Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai.
Dựa vào các căn cứ trên có thể thấy xét xử kín sẽ được áp dụng trong 03 trường hợp sau:
Trường hợp 1: Cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc
Trong trường hợp Tòa án xét thấy cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các vụ án điển hình cho trường hợp xét xử kín này xuất phát từ các vụ án liên quan đến Làm sai quy định nhà nước gây thất thoát ngân sách, tham nhũng,..vì nó liên quan đến việc giữ bí mật nhà nước hoặc các tội như gián điệp,…
Bởi lẽ, việc xét xử công khai sẽ vô tình làm lộ các bí mật quốc gia hoặc bị các đối tượng chống phá nhà nước, chính quyền nhân cơ hội làm loạn gây mất trật tự an ninh.
Đối với việc thuần phong mỹ tục thì việc xét xử công khai sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến những chủ thể tham gia phiên tòa, ảnh hưởng đến giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Trường hợp 2: Bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi
Xét thấy phải bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi. Bởi lẽ các đối tượng này về nhận thức cũng như sự phát triển chưa được toàn diện dễ bị ảnh hưởng tâm lý, tình thần. Do đó, để hạn chế nhất có thể những ảnh hưởng tiêu cực đối với tương lai sau này thì việc xét xử kín là cần thiết.
Các vụ án điển hình thường là các vụ án về hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm, dâm ô,…Bởi vì những vụ án này thường ảnh hưởng đến tâm lý của nạn nhân trong giai đoạn chưa phát triển về tinh thần hoặc hơn nữa có thể cản trở sự hòa nhập của họ sau khi cải tạo về với xã hội.
Trường hợp 3: Giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự
Xuất phát từ quyền giữ kín bí mật đời tư của chính đương sự. Trong một số trường hợp, yêu cầu được xét xử kín cũng là căn cứ để Tòa xét xử kín vụ án.
Nếu vụ án thuộc một trong các trường hợp được xét xử kín nêu trên thì đương sự có quyền gửi đơn đến tòa án xét xử vụ án đó để yêu cầu xử kín. Trên cơ sở yêu cầu của đương sự thì Tòa án sẽ xem xét, quyết định và khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa sẽ ghi rõ hình thức xét xử là công khai hoặc xử kín.
Điển hình có thể nói đến những vụ án như: bí mật doanh nghiệp, bí mật đời tư của cá nhân,…
Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm “thuần phong mỹ tục” và “bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự” vẫn chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể để áp dụng trong thực tiễn.
Xét xử kín nhưng tuyên án công khai là như thế nào?
Theo quy định của pháp luật tuy quá trình xét xử kín nhưng mà bản án phải được công khai.
Tuy nhiên bản án cũng thường chỉ được công khai phần quyết định bởi lẽ, việc công bố toàn bộ bản án sẽ trình bày hết các tình tiết vụ án. Điều này sẽ khó bảo vệ được bí mật nhà nước, bí mật đời tư và quyền lợi của người dưới 18 tuổi, trái với nguyên tắc việc xét xử kín.
Điều 327 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự:
“Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án với sự có mặt của các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân khởi kiện. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc vắng mặt trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 264 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án.
Trường hợp Tòa án xét xử kín theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 này thì Hội đồng xét xử chỉ tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án.”
Theo đó bản án chỉ được công khai phần quyết định mà không đọc nội dung bản án. Điều này nhằm mục đích của việc xét xử kín như trên phân tích.
Quy định về việc tuyên án công khai này nhằm đảm bảo phán quyết của Tòa án phải được công khai để từ đó giúp nhân dân giám sát và kiểm tra tính khách quan, minh bạch của phán quyết, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan.
Bên cạnh đó, việc này còn nhằm giáo dục pháp luật cho người dân, mang tính răn đe với mục đích phòng ngừa chung toàn dân. Thông qua hoạt động xét xử cho thấy pháp luật minh bạch và công bằng không bỏ qua bất cứ sự việc vi phạm pháp luật nào.