Mời tham khảo ...Thẩm phán có quyền vô hạn ...Quan hệ giửa Luật sư bào chửa và TP TA là quan hệ Bất Bình đẳng....
.......................................
II. Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm
Không giống như đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm gồm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị.
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Về căn cứ đình chỉ. Điều 278 BLTTDS quy định: “Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của Bộ luật này”. Quy định này cho thấy, khác với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong Toà án cấp sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm ngoài việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và chấm dứt hoạt động tố tụng còn phải huỷ bản án, quyết định sơ thẩm. Bởi lẽ những căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án ở đây cũng chính là những căn cứ được quy định tại Điều 192 BLTTDS nhưng đã xuất hiện và tồn tại khi Toà án sơ thẩm giải quyết vụ án. Nói cách khác, căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm tồn tại cũng có nghĩa là bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở. Ví dụ: Một vụ tranh chấp dân sự đã hết thời hiệu khởi kiện, đáng lẽ Toà án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện hoặc phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhưng vì lý do nào đó lại đưa vụ án ra xét xử, thì Toà án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và huỷ bản án sơ thẩm.
Thêm vào đó, khoản 1 Điều 269 BLTTDS về việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà quy định: “Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn ... Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án”. Đây là trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại thủ tục phúc thẩm. Theo đó, khi đương sự có kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị, nhưng trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm khác với Toà án cấp sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 278 và khoản 1 Điều 269 BLTTDS như vừa trình bày ở trên thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm chỉ được áp dụng trong phiên toà phúc thẩm chứ không được áp dụng cả trong giai đoạn chuẩn bị xét xử như ở Toà án cấp sơ thẩm. Và như vậy, thẩm quyền đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Về hình thức. Cũng theo quy định tại Điều 278 và khoản 1 Điều 269 BLTTDS, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc bản án phúc thẩm. Trong những trường hợp theo quy định tại Điều 278 thì Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Nội dung và mẫu quyết định đình chỉ hoặc bản án phúc thẩm được quy định tại Điều 279 BLTTDS và cụ thể hoá trong Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/08/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm” của BLTTDS.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Đình chỉ xét xử phúc thẩm khác với đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, bởi lẽ tuy nó làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc thẩm nhưng những quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo phán quyết trong bản án, quyết định sơ thẩm phải được tôn trọng và thi hành.
Để thấy rõ hơn vấn đề này có thể phân tích các quy định của pháp luật tại Điều 260, 278 BLTTDS. Dễ thấy 2 trong số các căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét sử phúc thẩm vụ án hay ra bản án hoặc quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đều là căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS: “Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế”; “Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tổ chức đó”. Tuy nhiên, khi so sánh để áp dụng sẽ thấy các căn cứ được quy định tại Điều 278 là các căn cứ đã xuất hiện trước hoặc trong khi giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, còn các căn cứ quy định tại Điều 260 thì xuất hiện và tồn tại trong quá trình Toà án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án. Cũng chính vì vậy mà bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật vì thời điểm Toà án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định sơ thẩm là hoàn toàn có căn cứ, cơ sở.
Ngoài Điều 260 BLTTDS thì mục I.10 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP cũng quy định: “Trước khi mở phiên toà việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện, còn tại phiên toà do Hội đồng xét xử thực hiện”. Theo đó:
- Thời điểm đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên toà là giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm.
- Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do thẩm phán được phân công phụ trách vụ án thực hiện nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, còn nếu tại phiên toà phúc thẩm thì thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Bên cạnh đó, hình thức và nội dung quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự đã được quy định cụ thể theo mẫu trong Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP.
3. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị
Theo quy đinh tại khoản 2 Điều 256 BLTTDS thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị. Và trong trường hợp này, Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị. Quy định này cũng đã được cụ thể hoá tại mục I.10 Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP. Theo đó, Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị trong các trường hợp đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại a.1, a.2 tiểu mục 10.2 mục I.10 Nghị quyết sô 05/2006/NQ-HĐTP. Vậy việc đình chỉ xét xử phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị ở Toà án cấp phúc thẩm không làm chấm dứt tố tụng mà Toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ án đối với những phần còn lại theo thủ tục chung.
Bên cạnh đó mục I.10 cũng đã quy định rõ rằng trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị và vụ án không còn kháng cáo, kháng nghị thì phải đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Đây là điểm cần lưu ý khi áp dụng các quy định này của pháp luật tố tụng dân sự.
Trích nguồn để bạn nghiên cứu chơi thôi...
http://moj.gov.vn/mobile/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=6780
Cho dù em có xem anh là kẻ thù !Anh vẫn xem em là bạn ,bởi vì nếu không có em ( tức kẻ thù) ,thì lấy ai đâu ...để anh vượt qua thử thách?
nguoitruongphu