Có phải là cái này?
Thông tư
của Tổng cục lâm nghiệp
số
10-LN/SX ngày 8 tháng 2 năm 1971
hướng
dẫn thi hành bản chỉ tiêu tạm thời về tỷ lệ thành khí gỗ xẻ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 101-LN/QĐ ngày 4-2-1971 của Tổng cục Lâm
nghiệp)
- Tổng cục đã ban hành "Chỉ
tiêu tạm thời về tỷ lệ thành khí gỗ xẻ", Quyết định số 101-LN/QĐ ngày
4-2-1971.
Thông tư này hướng
dẫn thi hành các điểm đã ghi trong chỉ tiêu.
Chương I Nội dung của
chỉ tiêu
Mục A: Nội dung về số
lượng tỷ lệ.
Điểm 3: Kết cấu tỷ lệ
chuẩn các cấp đường kính trong tổng số gỗ tròn tham gia xẻ, có chỉ số thành
khí 62,5%, trong chỉ tiêu đã ghi:
- Gỗ tròn cỡ đường kính 25
cm á 34 cm = 35% 35 cm á 49 cm = 55% 50 cm trở lên = 10% chỉ số tỷ lệ thành
khí bình quân chuẩn là: 62,5% Cộng: 100%
Nay nói rõ thêm: - Tổng số
gỗ tròn nhập kho xí nghiệp phân ra làm 3 cấp đường kính, kết cấu tỷ lệ về số
lượng gỗ tròn thuộc từng cấp đường kính trên là ở dạng chuẩn, có chỉ số
thành khí 62,5%, trong thực tế gỗ tròn nhập kho xí nghiệp, tỷ lệ trên có xê
dịch lên xuống thì áp dụng công thức tính ở điểm 4 dưới đây (phương pháp
tính tỷ lệ bình quân). Nếu sau khi tính cho ta kết quả về tỷ lệ thành khí gỗ
xẻ tương ứng với giá trị bình quân thì được công nhận là đạt được nội dung
này của chỉ tiêu.
Điểm 4: Phương pháp tính
tỷ lệ bình quân trong chỉ tiêu đã ghi: "Công thức tính tỷ lệ thành khí bình
quân" này nói rõ thêm: Công thức tính tỷ lệ bình quân trong chỉ tiêu đã ghi
có dạng toán học tổng quát như sau:
Trong đó:
X1, 2...
n là: tỷ lệ về số lượng gỗ tròn của từng cấp
đường kính trong tổng số nguyên liệu.
Y1, 2...
n là: tỷ lệ thành khí gỗ xẻ quy định cho từng cấp
đường kính gỗ tròn.
Z1, 2...
n là: tích số tỷ lệ thành khí bình quân của cấp
đường kính ấy. X là: tổng số lượng gỗ tròn tham gia xẻ.
X
= S x hay = x1 + x2 ... + xn
Z
là: tỷ lệ thành khí tương ứng với giá trị bình quân. Z = S z hay = z1 + z2
... + zn
Ví dụ 1: Tổng hợp gỗ tròn
trong kỳ sản xuất của xí nghiệp ta có x1, 2... n
ngẫu nhiên tương ứng với quy định chuẩn như bảng dưới đây (bảng 1). Từ dạng
tổng quát của công thức trên, áp dụng vào bằng số ta thay x và y bằng các
dãy số thực tế trong sản xuất và tính được kết quả của Z như sau:
1. Cấp đường kính: 25cm á
34cm:
2. Cấp đường kính: 35cm á
49cm:
3. Cấp đường kính: 50cm
trở lên:
Z1 + Z2 + Z3 = Z 19,95%
+ 35,75% + 6,8% = 62,5%.
Ví dụ 2: Ta có bằng số tập
hợp 3 kỳ sản xuất của xí nghiệp sau đây (bảng 2): Ta thay x và y bằng các
dãy số của 3 kỳ sản xuất tính ra được kết quả Z như trong bảng đã ghi:
-
Kỳ sản xuất 1:
- Kỳ sản xuất 2:
-
Kỳ sản xuất 3:
Kết
quả của 3 kỳ sản xuất của ví dụ 2, tuy tỷ lệ bình quân có khác nhau nhưng
đều được coi là đạt tỷ lệ bình quân có giá trị tương ứng như nhau.
- Kỳ sản xuất 1: tổng tích
số là 62,5% là bình quân chuẩn theo quy định.
- Kỳ sản xuất 2: tổng tích
số là 61,4% cũng được tính bằng tỷ lệ bình quân
chuẩn (62,5%) vì có biến số về cấp đường kính gỗ tròn:
x1
: 49,8% - 35% = +14,8% x2 : 37,5% - 55% = -17,5% x3 : 12,7% - 10% = +2,7%
- Kỳ sản xuất 3: tổng tích
số là: 64,5% cũng chỉ được tính bằng bình quân
chuẩn (62,5%) vì có biến số về cấp đường kính gỗ tròn:
x1
: 18,2% - 35% = -16,8% x2 : 48% - 55% = -7% x3 : 33,8%
- 10% = +23,8%
Qua các ví dụ trên cho ta
thấy: X1, 2 ... n biến động thì Z1, 2 ... n biến
động và Z cũng biến động.
Mục B: Nội dung về tỷ
lệ kết cấu quy cách sản phẩm.
- Trong chỉ tiêu đã ghi:
Điểm 1: b) Bình quân chuẩn
chia theo cỡ gỗ xẻ.
Điểm 3: Tỷ lệ kết cấu quy
cách gỗ xẻ chia theo cấp đường kính gỗ tròn tham
gia xẻ. Nay nói rõ thêm:
-
Gỗ xẻ có kích thước càng lớn thì càng có giá trị cao, do đó, kết cấu các tỷ
lệ bình quân trên là quy định giá trị bình quân tiêu chuẩn của tỷ lệ thành
khí gỗ xẻ nhằm: đạt hiệu quả kinh tế tốt nhất, chống việc sản xuất tuỳ tiện
"lấy gỗ to cắt làm việc nhỏ, lấy gỗ dài cắt làm việc ngắn".
- Các tỷ lệ trên là bình
quân chuẩn chia theo cỡ gỗ xẻ và bình quân chia
theo cấp đường kính gỗ tròn sẽ biến động tuỳ thuộc sự biến động của cấp
đường kính gỗ tròn (áp dụng phương pháp tính ở điểm 4).
Điểm 4: Phương pháp tính:
Trong chỉ tiêu đã ghi: "Công thức tính tỷ lệ kết cấu sản phẩm" nay nói rõ
thêm:
- Công thức tính tỷ lệ kết
cấu sản phẩm trong chỉ tiêu đã ghi có dạng toán học tổng quát như sau:
Trong đó: X1, 2...
n là tỷ lệ về số lượng gỗ tròn của từng cấp đường
kính trong tổng số nguyên liệu.
Ya1, 2...
n, Yb1, 2... n, Ydnlà:
tỷ lệ kết cấu về quy cách sản phẩm quy định cho từng cấp đường kính gỗ tròn.
za1, 2...
n, zb1, 2... n, ...
zdn là: tích số tỷ lệ kết cấu về sản phẩm quy định cho từng cỡ gỗ xẻ của
từng cấp đường kính gỗ tròn.
X là: tổng số lượng gỗ
tròn tham gia xẻ.
X = S x hay = x1 + x2 ...
+ xn Z là: tỷ lệ kết cấu quy cách sản phẩm bình quân
Z = S z hay = za1, 2... n
+ zb1, 2... n ... + zdn
- Ta thay x và y bằng các
dãy số và có kết quả của z như trong bảng đã ghi:
Bảng 3 cỡ lớn:
za1+
za2+ za3= za 9,45% + 18,7% + 3,85% = 32%
Bảng 3 cỡ trung bình:
zb1+
zb2+ zb3= zb 6,3% + 9,9% + 1,8% = 18%
Bảng 3 cỡ nhỏ:
zc1 + zc2 + zc3 = zc 2,45%
+ 4,4% + 0,75% = 7,6%
Bảng 3 cỡ
nan nẹp:
zd1 + zd2 + zd3 = zd 1,75%
+ 2,75% + 0,4% = 4,9%
Tỷ lệ bình quân
chung:
Z = za + zb + zc + zd 62,5%
= 32% + 18% + 7,6% + 4,9%
(Bảng 4 và 5 cũng
theo cách tính trên).
- Trong cả 3 bảng số trên,
tuy kết quả tỷ lệ khác nhau nhưng được coi là đạt chỉ tiêu có giá trị tương
ứng như nhau. Nếu đạt trên mức quy định coi như vượt
mức, ngược lại dưới mức quy định coi như hụt không hoàn thành nội dung của
chỉ tiêu.
- Lấy cỡ lớn của cả 3 bảng
làm ví dụ:
- Bảng 3 x cỡ lớn = 32%
bình quân chuẩn.
- Bảng 4 x cỡ lớn = 31,0855%
cũng được coi là đạt bình quân chuẩn (32%) vì có biến số cấp đường kính gỗ
tròn:
Cỡ gỗ đường kính 25cm -
34cm: 49,8% - 35% = +14,8%
Cỡ gỗ đường kính 35cm -
49cm: 37,5% - 55% = -17,5%
Cỡ gỗ đường kính 50cm trở
lên: 12,7% - 10% = +2,7%
- Bảng 3 cỡ lớn = 34,247%
cũng chỉ được coi là bảng bình quân chuẩn (32%) vì có biến số cấp đường kính
gỗ tròn:
Cỡ gỗ đường kính 25cm -
34cm: 18,2% - 35% = -16,8%
Cỡ gỗ đường kính 35cm -
49cm: 48% - 55% = -7%
Cỡ gỗ đường kính 50cm trở
lên: 33,8% - 10% = +23,8%
- Các cỡ khác cũng
theo phương pháp phân tích trên.
Mục C: Nội dung về phẩm
chất gỗ xẻ:
- Điểm 2: Trong chỉ tiêu
đã ghi:
"3
dạng khuyết tật của gỗ xẻ".
Nay nói rõ thêm:
+ Khuyết tật do kỹ thuật
mặt hàng: là do kỹ thuật trong quá trình xẻ gây ra như: dính ruột, lượn
sóng, vát cạnh, kích thước không đều ở các cạnh dài, rộng, dày...
+ Khuyết tật tự nhiên: là
do khuyết tật của gỗ cây mang sang như: mặt, bướu, ụ, rỗng ruột, xoắn thớ,
vặn thớ, mạch trạch...
+
Khuyết tật do bảo quản: chia 2 phần, một phần do quá trình bảo quản của gỗ
cây không chu đáo chuyển sang gỗ xẻ như: gỗ biến
màu, mục ải, hà rỗng ruột, dập xước 2 đầu v.v... một
phần do quá trình bảo quản gỗ xẻ gây ra như: biến màu trên mặt tấm gỗ, nứt,
nẻ, cong vênh, mục ải, v.v... - Khuyết tật của gỗ xẻ rất phức tạp, về số
lượng, mức độ khuyết tật sẽ có bản quy định sau.
Chương II Hao hụt tỷ lệ
do quá trình pha, cắt lại sản phẩm
Điểm 2: Trong chỉ tiêu đã
ghi: "Được trừ thêm tỷ lệ do quá trình pha, cắt
lại khẩu độ để phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng mục đích công trình".
Nay nói rõ thêm:
- Hiện nay tuy chưa có các
tỷ lệ quy định chính thức của từng mặt hàng thuộc từng ngành. Để làm cơ sở
cho sự thỏa thuận giữa hai bên mua và bán ta dựa vào các tổng kết sản phẩm
của các ngành để áp dụng tỷ lệ hao hụt do quá trình pha,
cắt lại khẩu độ sản phẩm như sau:
-
Đối với đồ mộc từ 15% đến 20% so với gỗ xẻ.
- Kiến thiết cơ bản từ 12%
đến 15% so với gỗ xẻ.
- Tàu thuyền từ 25% đến
30% so với gỗ xẻ.
- Yêu cầu kỹ thuật cao:
(Xà điện, ván sàn v.v...) trên 30% so với gỗ xẻ. - Ví
dụ: xẻ cho đồ mộc dạng sơ chế 1 (cắt đúng khẩu độ cho từng mặt hàng bàn,
ghế, tủ, giường, v.v.) sau đó chỉ còn bào, đục, lắp ráp là xong).
+ 100m3 gỗ tròn = 62,500m3
gỗ xẻ = 62,5%
Pha,
cắt lại khẩu độ được trừ thêm 15% hao hụt, cách tính như sau:
62,5%
- 9,375% = 53,125% giao cho đồ mộc.
Chương III Trách nhiệm
thi hành
Điểm I: Trong chỉ tiêu đã
ghi: "Bản chỉ tiêu này phải được phổ biến sâu rộng trong cán bộ, công nhân
trong các khâu chế biến gỗ, các cấp, các bộ môn khác trong toàn ngành lâm
nghiệp". Nay nói rõ thêm:
- Trước hết phải quán
triệt tầm quan trọng, yêu cầu cấp thiết của việc tiết kiệm gỗ.
Nếu không chấm dứt tình trạng quản lý tuỳ tiện, lạc hậu
như hiện nay thì không thực hiện được tốt chỉ tiêu thành khí gỗ xẻ mà còn
ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều mặt trong nền kinh tế quốc dân.
- Cần được phổ biến học
tập sâu rộng trong các cấp, các ngành có liên quan. Có
liên hệ kiểm điểm từ trên xuống dưới. Đối tượng chủ yếu là cán bộ
quản lý chủ chốt và cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân trực tiếp sản xuất.
Phải tuỳ từng đối tượng để định trọng tâm học tập và
kiểm điểm.
Ví dụ:
+ Đối với cán bộ kỹ thuật
thì kiểm điểm liên hệ và có biện pháp khắc phục về kỹ thuật và khoa học pha
chế gỗ, sử dụng và chọn thiết bị, dây chuyển sản xuất, v.v. để đạt được tỷ
lệ thành khí cao.
+ Đối với công nhân sản
xuất thì thực hiện đúng quy trình sản xuất, thao tác kỹ thuật, có ý thức tự
giác về sử dụng tiết kiệm nguyên liệu vào chế biến, bảo đảm chỉ tiêu cụ thể
về thành phẩm do xí nghiệp quy định.
+ Đối
với nhân viên thống kê, chính xác số liệu.
+ Đối
với thủ kho, chính xác trong giao nhận, lập số liệu ban đầu.
+ Đối
với giám đốc, quản đốc phân xưởng thì quản lý và tổ chức tốt toàn diện để
thực hiện tốt chỉ tiêu.
+ Đối
với cơ quan chủ quản cấp trên dựa vào chức năng cụ thể của mình để kiểm điểm
liên hệ, v.v...
- Yêu cầu chủ yếu làm cho mọi người thông suốt chủ trương, thấy rõ trách
nhiệm, tự giác nghiêm chỉnh chấp hành đúng đắn. Tuy căn bản phải dựa vào sự
giác ngộ của quần chúng, song phải thấy rõ đây là chế độ, pháp luật của Nhà
nước để có mọi biện pháp cụ thể về hành chính, kinh tế để bảo đảm tốt việc
thực hiện chỉ tiêu. Thông tư này, Tổng cục mới chỉ nêu
lên một số điểm cần thiết để hướng dẫn việc thi hành bản "Chỉ tiêu tạm thời
về tỷ lệ thành khí gỗ xẻ". Trong quá trình thực hiện có gì mắc mớ
hoặc cần góp ý, các ty, lâm trường có công văn về Tổng cục (qua Vụ chỉ đạo
sản xuất) để tìm tòi xây dựng hoàn chỉnh hơn.
- Các ty, lâm trường cần
phải có kế hoạch cụ thể, chuẩn bị điều kiện mọi mặt về công tác quản lý bao
gồm:
- Quản lý về kinh tế chế
biến gỗ;
- Quản lý kỹ thuật và công
nghệ chế biến gỗ và nghiêm chỉnh chấp hành bản chỉ tiêu trên.