Nội dung vụ việc: V,v DN A kinh doanh mua bán Ô tô bị truy thu thuế GTGT và thuế TNDN.
· Tháng 7/2012 Chi cục thuế Huyện X lập biên bản Kiểm tra thuế DN A. Kỳ kiểm tra: Năm 2009, 2010, 2011;
- Ngày 31/7/2012 Thuế Huyện X ra Quyết Định(QĐ) số 147 “ Về việc xử lý thuế, xử phạt vi phạm hành chính qua kiểm tra việc chấp hành Pháp Luật thuế”
- Nội dung: Truy thu thuế GTGT và TNDN 1,8 tỷ đồng.
- Với căn cứ:
- Thông tư số 69/2002/TT-BTC ngày 16/8/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 41/2002/QĐ-TTg ngày 16/03/2002 của Thủ tướng chính phủ để áp giá, ấn định số thuế phải nộp và xử lý vi phạm hành chính đối với 48 xe ô tô có giá bán thấp hơn giá thị trường.
- Giá bán ghi trên hóa đơn thấp hơn nhiều so với giá Quy định của UBND tỉnh) và căn cứ vào: Điều 107. Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn
Người nộp thuế đã phản ánh đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn hoặc khai sai nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều 108 của Luật này dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn thì phải nộp đủ số tiền thuế khai thiếu, nộp lại số tiền thuế được hoàn cao hơn và bị xử phạt 10% số tiền thuế khai thiếu, số tiền thuế được hoàn cao hơn và phạt tiền thuế chậm nộp trên số tiền thuế thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn cao hơn.
· DN khiếu nại QĐ 147. Đơn khiếu nại số…..
· Ngày 01/11/2012 Thuế Huyện X ra QĐ số 226” Về việc giải quyết khiếu nại của DN”
- Nội dung: 1. Công nhận 1 phần khiếu nại của DN về việc Cục thuế Huyện X căn cứ Thông tư số 69/2002/TT-BTC ngày 18/06/2002 để áp giá, ấn đính số thuế phải nộp và xử lý vi phạm hành chính về thuế đối với 48 xe ô tô có giá bán thấp hơn giá thị trường là chưa có cơ sở.
2. Hủy bỏ QĐ 147.
3. Truy thu 430 triệu đồng.
Với các căn cứ sau:
a) Khoản 1.6, điểm 1 Mục XII, Phần B Thông tư 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007(TT60 hết hiệu lực ngày 14/4/2011);
b) TT số 71/2010/TT-BTC ngày 07/5/2010 hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô, xe 2 bánh ghi giá bán trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường.
4. Sau 30 ngày nếu ko đồng ý DN có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
* Ngày 13/11/2012 DN khiếu nại QĐ 226. Đơn khiếu nại số…..
* Ngày 18/6/2013 Cục thuế Nghệ An ra QĐ số 1138 “ Về việc giả quyết khiếu nại của DN(lần 2)”
- Nội dung:
1. Công nhận nội dung khiếu nại của DN về việc Thuế huyện X căn cứ TT69/2002/TT-BTC tính thuế các xe ô tô ghi trên hóa đơn thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường là không có cơ sở.
2. Yêu cầu Chi cục trưởng thuế Huyện X:
2.1. Hủy bỏ 02 QĐ 147 và QĐ 226
2.2. Ban hành QĐ truy thu thuế GTGT và TNDN số tiền 290 triệu dồng.
Căn cứ:
1. Khoản 2, Mục XII Phần B TT 60/2007/TT-BTC( TT này đã hết hiệu lực ngày 14/4/2011) truy thu thuế 42 xe ô tô DN bán cho người tiêu dùng từ tháng 10/2009- 6/2010 có giá bán ghi trên hóa đơn thấp hơn gia dao dịch thông thường trên thị trường. Có kèm theo phụ lục 39 xe ô tô đối chiếu giá từ nguồn: web.360.oto.com; 02 xe ô tô đối chiếu từ nguồn:DN TNHH o to Giải phóng; 01 ô tô đối chiếu nguồn web bonbanh.com. Số tiền truy thu 190 triệu đồng
Trích dẫn nội dung áp dụng TT60 trên:
” 2. Ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp:
Người nộp thuế theo phương pháp kê khai bị ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp trong các trường hợp sau:
2.1. Trường hợp kiểm tra thuế, thanh tra thuế có căn cứ chứng minh người nộp thuế hạch toán kế toán không đúng quy định, số liệu trên sổ kế toán không đầy đủ, không chính xác, trung thực dẫn đến không xác định đúng các yếu tố làm căn cứ tính số thuế phải nộp trừ trường hợp bị ấn định số thuế phải nộp.
2.2. Qua kiểm tra hàng hoá mua vào, bán ra thấy người nộp thuế hạch toán giá trị hàng hoá mua vào, bán ra không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường.
Giá giao dịch thông thường trên thị trường là giá giao dịch theo thỏa thuận khách quan giữa các bên không có quan hệ liên kết.
Cơ quan thuế có thể tham khảo giá hàng hoá, dịch vụ do cơ quan quản lý nhà nước công bố cùng thời điểm, hoặc giá mua, giá bán của các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành nghề, cùng mặt hàng hoặc giá bán của doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng có qui mô kinh doanh và số khách hàng lớn tại địa phương để xác định giá giao dịch thông thường làm căn cứ ấn định giá bán, giá mua và số thuế phải nộp.”
2. Căn cứ TT 71/2010-BTC ấn định truy thu 06 xe bán từ giai đoạn 7/2010-12/2010 có giá bán ghi trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Số thuế GTGT, TNDN ấn định 100 triệu. Không hề trích dẫn Điều khoản áp dụng.
Tiện đây Tôi trích dẫn luôn: “Điều 4.TT71 ở trên. Xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường làm căn cứ ấn định giá, ấn định thuế phải nộp
1. Nguyên tắc xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường
Giá giao dịch thông thường trên thị trường được xác định căn cứ cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế thu thập từ: giá bán do cơ sở kinh doanh kê khai với cơ quan thuế; thông tin về giá từ các cơ quan quản lý nhà nước khác (cơ quan hải quan, Trung tâm thẩm định giá thuộc Sở Tài chính tỉnh, thành phố, Sở Công thương); Hiệp hội ôtô Việt Nam (VAMA); giá mua, giá bán xe ôtô, xe hai bánh gắn máy cùng chủng loại của cơ sở kinh doanh tại cùng địa phương hoặc ở địa phương khác; thông tin thu thập từ người tiêu dùng; giá xe ôtô, xe hai bánh gắn máy trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, bản tin thị trường, website.”
TT71 có hiệu lực từ ngày 21/6/2010.
Trên đây là nội dung vụ việc của DN Tôi đang tư vấn. DN không đồng ý với khoản truy thu cuối cùng là 290tr. Và muốn kiện ra tòa án hành chính.
1 . Tôi thắc mắc là QĐ 1138 Cục thuế nghệ An yêu cầu thuế Huyện X hủy QĐ 147 và QĐ 226. Sao còn ban hành QĐ truy thu 290tr đối với DN. Và bắt Chi cục trưởng cục thuế Huyện X , giám đốc DN chịu trách nhiệm thi hành tại Điều 4 QĐ này.
2. Tại sao QĐ 1138 lại áp dụng TT 60 đã hết hiệu lực. Bên cạnh đó nội dung điều khoản áp dụng của TT 60 và TT 71 là giống nhau sao không áp dụng TT 71 cho ka 48 xe ô tô. Vì thời điểm thanh kiểm tra hay ra QĐ đều trong năm 2012.
3. + Việc QĐ 1138 xác định giá thị trường chỉ dựa chủ yếu vào nguồn web 360.oto.com. bên cạnh đó dựa trên giá 1 doanh nghiệp kinh doanh oto trên địa bàn, cùng với xác định giá 01 oto dựa trên web bonbanh.com có đủ để làm căn cứ xác định giá như điều luật trích dẫn nêu trên ko. Cụ thể TT60 và TT71.
+ Tôi đọc căn cứ để xác định giá “giao dịch thông thường trên thị trường” mà Cục thuế Tỉnh A trích dẫn tại TT60 và TT71( Điều khoản Tôi đã nêu trên). Thì với TT 60 không hề có quy định nào xác định giá giao dịch trên thị trường thông qua web trên mạng, cũng như qua Giá tính lệ phí trước bạ của Ủy ban tỉnh như trong phụ lục diễn dãi tính giá thị trường kèm theo. Điều luật:” 2.2. Qua kiểm tra hàng hoá mua vào, bán ra thấy người nộp thuế hạch toán giá trị hàng hoá mua vào, bán ra không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường.
Giá giao dịch thông thường trên thị trường là giá giao dịch theo thỏa thuận khách quan giữa các bên không có quan hệ liên kết.
Cơ quan thuế có thể tham khảo giá hàng hoá, dịch vụ do cơ quan quản lý nhà nước công bố cùng thời điểm, hoặc giá mua, giá bán của các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành nghề, cùng mặt hàng hoặc giá bán của doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng có qui mô kinh doanh và số khách hàng lớn tại địa phương để xác định giá giao dịch thông thường làm căn cứ ấn định giá bán, giá mua và số thuế phải nộp.”
Bên cạnh đó 06 xe ô tô bị ấn thuế truy thu theo giá thông thường thị trường căn cứ vào TT71. Trích Điều luật:”TT 71: 1. Nguyên tắc xác định giá giao dịch thông thường trên thị trường
Giá giao dịch thông thường trên thị trường được xác định căn cứ cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế thu thập từ: giá bán do cơ sở kinh doanh kê khai với cơ quan thuế; thông tin về giá từ các cơ quan quản lý nhà nước khác (cơ quan hải quan, Trung tâm thẩm định giá thuộc Sở Tài chính tỉnh, thành phố, Sở Công thương); Hiệp hội ôtô Việt Nam (VAMA); giá mua, giá bán xe ôtô, xe hai bánh gắn máy cùng chủng loại của cơ sở kinh doanh tại cùng địa phương hoặc ở địa phương khác; thông tin thu thập từ người tiêu dùng; giá xe ôtô, xe hai bánh gắn máy trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, bản tin thị trường, website.” Thì việc Cục thuế Tỉnh A chỉ căn cứ chủ yếu vào 01 web.360.oto.vn và Giá tính lệ phí trước bạ của Ủy ban tỉnh. Điều này đã đủ căn cứ để Cục thuế Tỉnh A tính xác định giá thông thường trên thị trường để ấn định thuế truy thu cho DN chưa?( Theo bảng phụ lục Cục thuế gửi kèm cách xác định giá thông thường trên thị trường hoàn toàn dựa trên giá lệ phí trước bạ của UB tỉnh)
4. Tòa án hành chính Tôi gửi đơn khởi kiện là Tòa án Tỉnh A có đúng không.
5. Ngoài các câu hỏi của Tôi. Rât mong các Luật sư chuyên ngành cho thêm ý kiến tham khảo bổ ích để Tôi bổ sung thêm cho nhận định của mình. Đây là vụ đầu tiên của Tôi. Mong nhận được sự chia sẽ từ quý Luật sư.
Dưới đây là 01 vụ kiện tương tự và Doanh nghiệp đã thắng ở cả phiên Sơ thẩm và Phúc thẩm tại tòa án TP Hồ chí minh. Tôi không thể liên hệ xin được bản án để tham kháo. Luật sư nào có thể xin cho Tôi bản án được không. Tôi xin chân thành cảm ơn và hậu tạ.
http://quangtri.megafun.vn/tin-tuc/thi-truong/201006/Cuc-Thue-thua-kien-Bo-Tai-chinh-phai-sua-thong-tu-81269/index.htm
(Công ty M là Công ty Minh Thành.)
“Cho rằng doanh nghiệp bán xe thấp hơn giá thị trường, Cục Thuế đã ra quyết định truy thu thuế hơn 13 tỷ đồng nhưng tòa đã hủy quyết định này.
Công ty M. (quận 1, TP.HCM) là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nhiều ngành nghề. Từ tháng 7-2006, công ty kinh doanh thêm ngành nghề mua bán xe hai bánh.
Bán thấp hơn giá thị trường?
Tháng 11-2007, Công ty M. bị Cục Thuế TP ra quyết định truy thu thuế hơn 13 tỷ đồng, bao gồm hơn 3,6 tỷ đồng thuế GTGT và hơn 10 tỷ đồng thuế TNDN. Theo Cục Thuế, qua kiểm tra phát hiện sáu tháng cuối năm 2006, công ty đã bán lẻ 658 chiếc SH và 286 chiếc PS dưới giá tối thiểu là giá tính lệ phí trước bạ, gây thất thoát thuế.
Sau đó, Công ty M. khiếu nại lên Cục Thuế TP và Tổng cục Thuế nhưng đều bị bác đơn. Tháng 7-2008, công ty đã khởi kiện yêu cầu TAND TP hủy quyết định truy thu thuế trên. Theo công ty, khi bán xe cho khách, công ty đều xuất hóa đơn và báo cáo thuế đúng quy định. Quyết định truy thu của Cục Thuế TP vừa ban hành sai trình tự vừa sai cả về mặt nội dung. Việc Cục Thuế TP áp giá tính lệ phí trước bạ để cho rằng công ty ghi giá bán trên hóa đơn thấp hơn giá thị trường là không đúng bởi công ty bán xe theo giá từng loại xe vào thời điểm đó và luôn cao hơn giá mua vào.
Phản biện, Cục Thuế TP nói công ty đã bán 658 xe SH 150i chỉ với giá từ hơn 71,5 triệu đồng đến 76,4 triệu đồng/chiếc và 286 xe PS 150i với giá từ gần 71,7 triệu đồng đến hơn 68,4 triệu đồng/chiếc (đều chưa tính thuế GTGT). Tuy công ty có xuất hóa đơn tài chính, khai báo thuế đầy đủ nhưng thực tế là có hành vi xuất hóa đơn cho người tiêu dùng thấp hơn giá tối thiểu tính phí trước bạ. Cục Thuế TP cũng nói đã khảo sát giá trên thị trường xe máy tại quận 1 và quận 3 và được biết giá bán một chiếc SH trên thị trường lúc đó là 110 triệu đồng thì làm sao công ty có thể lý giải rằng “mua vào 70 triệu nên bán 74 triệu”...
Vì thế, Cục Thuế TP khẳng định Công ty M. đã có hành vi gian lận trên hóa đơn để trốn thuế nên đề nghị tòa bác yêu cầu của công ty nhằm tránh thất thu thuế và không tạo thành tiền lệ xấu cho các doanh nghiệp khác.
Nhầm lẫn giá
Tại phiên sơ thẩm hồi tháng 3-2009 của TAND TP, Công ty M. bảo Cục Thuế TP đã nhầm lẫn giữa giá thị trường và giá tính lệ phí trước bạ. Theo công ty, từ tháng 7-2006, Bộ Tài chính giảm thuế nhập khẩu xe hai bánh từ 100% xuống còn 90% nên giá bán xe của công ty là phù hợp và đúng với thị trường. Mặt khác, chưa có khách hàng nào phản ánh rằng mua xe với giá thực cao hơn giá ghi trên hóa đơn. Do đó, Cục Thuế TP suy luận rằng công ty bán xe thấp hơn giá thị trường là không có căn cứ.
Theo tòa, Công ty M. không vi phạm bởi không có căn cứ chứng minh công ty bán xe thấp hơn giá thực tế. Đồng thời, Cục Thuế TP cũng thừa nhận không có văn bản pháp lý nào buộc giá thị trường phải là giá tính lệ phí trước bạ do nhà nước quy định. Cục Thuế cũng xác nhận là nhà nước không ấn định giá thị trường cho các doanh nghiệp mà tùy thời điểm có thể thay đổi. Từ đó, tòa chấp nhận yêu cầu của Công ty M., hủy quyết định truy thu thuế của Cục Thuế TP và các quyết định giải quyết khiếu nại của ngành thuế về vụ này.
Không đồng tình, Cục Tthuế TP kháng cáo, VKSND TP cũng kháng nghị đề nghị tòa phúc thẩm bác yêu cầu của Công ty M.
Tại phiên phúc thẩm mới đây của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM, đại diện VKS nhận định Cục Thuế chưa chứng minh được Công ty M. trốn thuế như thế nào mà chỉ khảo sát thị trường chung chung, cần phải làm rõ thêm. VKS cũng nhận định cả Cục Thuế TP lẫn tòa sơ thẩm đều chưa tìm hiểu các khách hàng mua xe với giá nào, có giống hay khác giá công ty ghi trên hóa đơn hay không... Từ đó, VKS đề nghị hủy án để xét xử lại.
Theo tòa, về hình thức, biên bản vi phạm hành chính có sự không chính xác về thời gian (một bản ghi ngày này, bản kia ghi ngày khác) và không có sự xác nhận của doanh nghiệp vi phạm. Về nội dung, cũng như cấp sơ thẩm, tòa xác định việc Cục Thuế TP lấy giá tính lệ phí trước bạ áp đặt thành giá bán tối thiểu đối với doanh nghiệp là sai. Cuối cùng, tòa bác cả kháng cáo lẫn kháng nghị và y án sơ thẩm.
Cơ sở kinh doanh mặt hàng xe ôtô, xe hai bánh gắn máy ghi giá bán trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp hơn giá bán thực tế trên thị trường bị xử lý truy thu thuế GTGT, thuế TNDN theo giá bán được xác định trên cơ sở bảng giá tối thiểu xe ôtô, xe hai bánh gắn máy tính thu lệ phí trước bạ do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định.
(Theo Quyết định số 41 của Thủ tướng và Thông tư hướng dẫn số 69 của Bộ Tài chính)
Nguồn bài viết: http://luathoc.cafeluat.com/showthread.php/4115-Gia-ban-xe-bang-gia-ban-le-phi-truoc-ba?s=39d0b7e39dc0c3bdcd69dfc01ff6e202#ixzz2YyX9BSyJ”