Em có 1 tình huống cần giải quyết nhưng không biết làm cách nào. Xin mọi người cho ý kiến!
Nghiên cứu Bản án dưới đây và trả lời các câu hỏi sau
1. Bà Đỗ Thị Lan Nhung có nhận của bà Hồng 58,000 usd hay không?
2. Bà Đỗ Thị Lan Nhung có đại diện cho Công ty X ký hợp đồng môi giới mua 02 căn hộ dự án Estella quận 2 cho bà Hồng hay không? Đoạn nào cho câu trả lời.
3. Có cơ sở nào cho thâý Công ty không cho bà Nhung được quyền sử dụng con dấu hay không?
4. Có cơ sở nào cho thấy X có nhận số tiền 58.000 USD của bà Hồng hay không?
5. Theo giấy phép kinh doanh thì Văn phòng đại diện công tyX có quyền ký hợp đồng với bà Hồng hay không? Đoạn nào cho câu trả lời.
6. Nội dung thỏa thuận của các bên về việc thanh toán trong hợp đồng có vi phạm pháp luật không? Cơ sở pháp lý.
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 1820/2009/DSPT
Ngày: 17/9/2009.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Lan
Và các Thẩm phán: 1. Bà Đỗ Thị Thu Hương.
2. Bà Lê Thị Hồng Hạnh.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Ngô Kim Phụng – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 9 năm 2009, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 699/2009/TLPT ngày 25/8/2009 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 20/2009/DSST ngày 03 tháng 7 năm 2009 của Tòa án nhân dân quận 2 bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số587/QĐ-PT ngày 28/8/2009 giữa:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hồng, sinh năm 1959
Địa chỉ: A
Bị đơn: X.
Địa chỉ: X
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông V.
Địa chỉ: B
Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Giác Tha thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đỗ Thị Lan Nhung, sinh năm 1979
Địa chỉ: C
2. Ông Nguyễn Ngọc Quân, sinh năm 1959
Địa chỉ: D.
NHẬN THẤY
Theo bà Trần Thị Hồng trình bày:
Do có nhu cầu về nhà ở nên ngày 22/01/2008 bà có thỏa thuận với X nay là X (gọi tắt là Công ty X) do bà Đỗ Thị Lan Nhung – Giám đốc văn phòng đại diện Công ty làm đại diện Công ty, để Công ty làm dịch vụ đăng ký tên bà mua 02 căn hộ dự án Estella quận 2, chi phí thực hiện hợp đồng là 1.000 USD, nhưng khi ký bản thoả thuận đăng ký mua, bà phải nộp số tiền thành ý là 58.000USD/02 căn hộ gồm phí môi giới. Số tiền này sẽ chuyển thành tiền đặt cọc khi bà có tên trong danh sách mua căn hộ. Nếu chủ đầu tư dự án công bố việc bán căn hộ chính thức mà bà không có tên thì Công ty Thổ Dân bồi thường cho bà 58.000 USD (tương đương 928.000.000 đồng) trong vòng một tháng kể từ ngày chủ đầu tư thông báo.
Ngay sau khi ký bản thỏa thuận, bà nộp 58.000 USD có xác nhận của bà Nhung, có đóng dấu của Công ty. Khi chủ đầu tư dự án công bố việc bán căn hộ Estella quận 2, có mời bà lên để đăng ký mua 01 căn hộ thì bà hỏi số tiền 58.000 USD đã nộp thì họ không biết về số tiền này. Bà có liên lạc với bà Nhung và ông Hùng là giám đốc Công ty nhưng không được. Nay bà yêu cầu hủy hợp đồng và yêu cầu Công ty Thổ Dân trả cho bà số tiền 86.500 USD, quy đổi ra tiền đồng Việt Nam vào thời điểm xét xử, trả một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Ông Tạ Quang Tòng đại diện Công ty X trình bày:
Văn phòng đại diện Công ty do bà Nhung là người đứng đầu văn phòng, theo giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện số 4122004063 ngày 29/10/2007. Ngày 22/01/2008 văn phòng đại diện của Công ty có ký hợp đồng dịch vụ môi giới cho bà Hồng mua 02 căn hộ thuộc dự án căn hộ Estella quận 2, chi phí môi giới là 1.000 USD thể hiện bằng bản thỏa thuận. Tuy nhiên, bản thỏa thuận này không có giá trị pháp lý. Vì bà Nhung không được quyền ký hợp đồng với các đối tác phía ngoài Công ty và không được sử dụng con dấu của Công ty. Bà Nhung nhận 58.000 USD không có ý kiến của Công ty, nhưng xác nhận 02 con dấu trong bản thỏa thuận là dấu của Công ty. Công ty không nhận tiền của bà Hồng nên Công ty không đồng ý yêu cầu của bà Hồng. Nếu bà Hồng chứng minh việc giao nhận tiền với bà Nhung thì bà Nhung có trách nhiệm trả.
Theo bà Đỗ Thị Lan Nhung trình bày:
Bà là Giám đốc Văn phòng đại diện Công ty X, đã môi giới cho bà Hồng mua suất tại căn hộ dự án Estella quận 2 của bà Grandis với giá 58.000 USD/02căn hộ. Bà Hồng đã hoàn tất việc điền thông tin vào mẫu đơn đăng ký mua căn hộ. Bà chỉ nhận của bà Hồng 1.000 USD. Do bà Hồng mất phiếu thu tiền đã nộp, bà có xác nhận nhận số tiền 58.000 USD nhưng thực tế bà không có nhận.
Ông Nguyễn Ngọc Quân thống nhất ý kiến bà Hồng và xin vắng mặt.
Án sơ thẩm đã xử:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Hồng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc Quân.
Buộc X có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Hồng và ông Nguyễn Ngọc Quân số tiền 1.032.516.000 đồng, trả một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Hủy bản thỏa thuận ngày 22/01/2008 về việc đăng ký mua căn hộ dự án Estella quận 2, giữa Công ty X và bà Trần Thị Hồng.
Các bên thi hành tại Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ngòai ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 10/7/2009 Công ty X có đơn kháng cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo. Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ông Việt đại diện bị đơn trình bày kháng cáo như sau: bị đơn kháng cáo 1 phần bản án sơ thẩm, lý do: công ty không nhận số tiền 58.000 USD của bà Hồng, nên công ty không đồng ý trả. Bà Nhung trưởng văn phòng đại diện công ty, tự ý ký hợp đồng và nhận tiền của bà Hồng là trái quy định, nên bà Nhung phải có nghĩa vụ trả số tiền đã nhận cho bà Hồng.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn, đề nghị toà chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng yêu cầu công ty trả bà số tiền 58.000 USD.
Bà Trần Thị Hồng ông Nguyễn Ngọc Quân đề nghị y án sơ thẩm.
Bà Đỗ Thị Lan Nhung không có ý kiến.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty X, Hội đồng xét xử phân tích như sau:
Công ty X, được Sở kế hoạch và đầu tư Tp. Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 23/5/2006, SĐKKD 4102039649.
Sau khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, ngày 15/10/2007 Hội đồng thành viên Công ty họp và quyết định thành lập văn phòng đại diện, hoạt động chính của văn phòng đại diện là tiếp thị và giao dịch bất động sản bên cạnh những hoạt động đã đăng ký khác.
Ngày 29/10/2007, Sở kế hoạch và đầu tư Tp. Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, SĐKKD 4122004069, với tên gọi là văn phòng đại diện Công ty X, người đứng đầu văn phòng là bà Đỗ Thị Lan Nhung với ngành nghề kinh doanh của văn phòng đại diện là giao dịch, tiếp thị.
Ngày 27/10/2008 Công ty X, được chuyển đổi sang Công ty Cổ X, SĐKKD 4103011631.
Ngày 22/1/2008, bà Nhung đại diện Công ty X, ký bản thoả thuận với bà Trần Thị Hồng về việc đăng ký tên của bà Hồng trên danh sách mua 2 căn hộ dự án Estella quận 2 (bút lục 31) và xác nhận: ngày 22/1/2008 có nhận của chị Hồng số tiền là 58.000 USD.
Xét thấy bản thoả thuận nêu trên và phần xác nhận nhận tiền, bà Đỗ Thị Lan Nhung thừa nhận do bà lập, ký tên và đóng dấu công ty. Và đại diện bị đơn cũng thừa nhận 2 dấu đóng trên bản thoả thuận ngày 22/1/2008, là dấu của công ty.
Tuy nhiên phía bị đơn cho rằng, bà Nhung không được quyền ký hợp đồng với các đối tác phía ngoài công ty, nhưng do công ty quản lý dấu không chặt chẽ dẫn đến việc bà Nhung tuỳ tiện sử dụng con dấu trái với quy định của công ty. Số tiền bà Nhung nhận của bà Hồng, bà Nhung tự chịu trách nhiệm trả, nên công ty không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Hồng.
Xét thấy, trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện số 4122004069 do Sở kế hoạch đầu tư Tp. Hồ Chí Minh cấp cho Công ty X ngày 29/10/2008, chỉ quy định đơn vị phải thực hiện theo đúng những quy định của pháp luật, không quy định bà Nhung người đứng đầu văn phòng đại diện không được quyền ký hợp đồng với các đối tác ngoài công ty và không được sử dụng dấu công ty. Đại diện bị đơn cũng không có chứng cứ chứng minh, trưởng văn phòng đại diện không được ký hợp đồng, không đươc sử dụng dấu công ty. Hơn nữa điều lệ hoạt động của Công ty X, cũng không quy định điều khoản nêu trên, do vậy lời khai của bị đơn không có cơ sở xem xét.
Xét thấy, tại khoản 2 điều 92 Bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01/1/2006 quy định, văn phòng đại diện không phải là pháp nhân và là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân. Và tại khoản 5 Điều 92 Bộ luật dân sự quy định, pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện xác lập. Ngày 22/1/2008 bà Nhung trưởng văn phòng đại diện, ký bản thoả thuận với bà Hồng và nhận 58.000 USD với tư cách đại diện công ty, có chữ ký và đóng dấu của công ty X, không phải là cá nhân bà Nhung, nên công ty phải chịu trách nhiệm theo quy định tại khoản 5 điều 92 Bộ luật dân sự như đã phân tích ở trên.
Theo đại diện bị đơn, số tiền 58.000 USD bà Hồng khai nộp cho công ty nhưng không có phiếu thu, nên không chịu trách nhiệm là không đúng. Bởi lẽ tại bản thoả thuận, chính bà Nhung có xác nhận nhận của bà Hồng 58.000 USD có ký tên đóng dấu công ty. Và sau khi 2 bên ký bản thoả thuận, bà Hồng nộp số tiền 58.000 USD, công ty không thực hiện việc đăng ký tên cho bà Hồng trong danh sách được mua căn hộ dự án Estella quận 2, như 2 bên thoả thuận, nên bà Hồng kiện buộc công ty trả lại bà số tiền đã nhận. Cấp sơ thẩm căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ và lời thừa nhận của các đương sự, buộc Công ty X phải hoàn lại số tiền 58.000 USD cho bà Hồng, theo tỷ giá quy đổi ra tiền đồng Việt nam tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 1.032.516.000 đồng là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật, nên cấp phúc thẩm giữ y phần này của quyết định sơ thẩm. Do vậy yêu cầu kháng cáo của bị đơn và đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị đơn, là không có cơ sở xem xét.
Xét, tại toà phúc thẩm bà Nhung xin tự giải quyết số tiền 58.000 USD với bà Hồng, không yêu cầu Công ty X phải chịu trách nhiệm, nhưng đề nghị của bà Nhung không được bà Hồng chấp nhận, do vậy không có cơ sở xem xét.
Các phần khác của quyết định không có kháng cáo kháng nghị, nên đã có hiệu lực pháp luật.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Về án phí phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 131, 132; khoản 1 Điều 275, 279 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị định số 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 20/2009/DSST ngày 03/7/2009 của toà án nhân dân quận 2.
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Hồng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc Quân.
Buộc Công ty X có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Hồng và ông Nguyễn Ngọc Quân số tiền 1.032.516.000 đồng, trả một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Hủy bản thỏa thuận ngày 22/01/2008 về việc đăng ký mua căn hộ dự án Estella quận 2, giữa Công ty X) và bà Trần Thị Hồng.
Các bên thi hành tại thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày bà Hồng ông Quân có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn không thi hành các khoản tiền trên, thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải trả thêm cho bà Hồng ông Quân tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả tại thời điểm thi hành án.
Về án phí dân sự sơ thẩm: 28.032.516 đồng Công ty X chịu. Hoàn lại 14.235.250 đồng cho bà Trần thị Hồng theo biên lai thu tiền số 003814 ngày 9/2/2009 của Thi hành án dân sự quận 2.
Về án phí dân sự phúc thẩm: 200.000 đồng Công ty X chịu, được trừ vào số tiền 50.000 đồng công ty tạm nộp theo biên lai thu số 006336 ngày 15/7/2009 và 150.000 đồng theo biên lai thu số 006357 ngày 23/7/2009 của Thi hành án dân sự quận 2.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.