Bản án số :408/2007/KDTM-ST ngày 07/3/2007
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Trong các ngày 05 và 07 tháng 3 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số566/2006/TLST-KDTM ngày 15 tháng 8 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số374/2007/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 02 năm 2007 giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Ông ĐỖ BÁ SƠN (Có mặt)
Thường trú : 174/21 Lê Quốc Hưng, Phường 12, Quận 4, TPHCM
Đại diện : Ông Bùi Quang Nghiêm, GUQ ngày 30/01/2007
(Có mặt)
Bị đơn : Ông NGUYỄN NHẬT THANH
Thường trú : 152/13 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TPHCM
Tạm trú : Aáp 5, xã Đạo Thạnh, Tp. Mỹ Tho, Tiền Giang
Đại diện : Ông Trần Anh Dũng, GUQ ngày 20/12/2006
(Có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan::
Ông NGUYỄN VĂN TUẤN
Thường trú : 152/13 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TPHCM
Đại diện : Ông Trần Anh Dũng, GUQ ngày 27/02/2007
Bà LÊ THỊ THU HỒNG
Tạm trú : 46/3 Lê Thị Hồng Gấm, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang
Đại diện : Ông Trần Anh Dũng, GUQ ngày 07/02/2007
(Có mặt)
NHẬN THẤY
- Nguyên đơn (ông Đỗ Bá Sơn) trình bày :
Ngày 15/7/2005, ông Nguyễn Nhật Thanh là Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty cổ phần ĐB Gas có ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ 8.500 cổ phần trong Công ty cổ phần ĐB Gas cho ông Đỗ Bá Sơn với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng và đã nhận đủ số tiền này từ ông Sơn. Tuy nhiên, sau đó ông Thanh không thực hiện việc làm thủ tục đăng ký thay đổi Chủ tịch HĐQT của công ty. Do đó, ông Sơn làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Thanh phải trả lại số tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận 1,5 tỷ đồng nói trên.
- Bị đơn (ông Nguyễn Nhật Thanh) trình bày :
Xác nhận chỉ ký khống vào tờ giấy trắng để ông Sơn sử dụng vào việc liên hệ mua gas tại Hà Nội, thực tế không có ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn Tuấn, bà Lê Thị Thu Hồng) trình bày :
Ông Nguyễn Nhật Thanh không có thông qua Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần ĐB Gas việc chuyển nhượng cổ phần nói trên. Các cổ đông sáng lập còn lại (ông Tuấn và bà Hồng) không chấp nhận việc chuyển nhượng này.
Tòa án đã triệu tập hòa giải nhiều lần nhưng do bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt (chỉ có ông Trần Anh Dũng đại diện nhưng tại thời điểm hòa giải chưa có giấy ủy quyền hợp lệ) nên không thể tiến hành hòa giải được và Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa hôm nay :
- Nguyên đơn (ông Đỗ Bá Sơn) : Yêu cầu ông Nguyễn Nhật Thanh phải hoàn trả 1,5 tỷ đồng tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đồng ý hoàn trả cho Công ty cổ phần ĐB Gas toàn bộ các giấy tờ đã nhận thế chấp từ ông Thanh ngay sau khi nhận được đủ tiền do ông Thanh hoàn trả.
- Bị đơn (ông Nguyễn Nhật Thanh) : Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vì hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên chỉ là hợp đồng ký khống (khi ký chưa có nội dung). Đề nghị ông Sơn trả lại các giấy tờ đã nhận của công ty.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn Tuấn, bà Lê Thị Thu Hồng) : Thống nhất với ý kiến của bị đơn, việc chuyển nhượng cổ phần giữa ông Thanh và ông Sơn chưa được thông qua Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ phần ĐB Gas.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :
1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :
Đây là tranh chấp về kinh doanh thương mại (mua bán cổ phiếu) giữa các cá nhân đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn cư trú tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào khoản 4 Điều 29, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 1 Nghị quyết số742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uûy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và mục b điểm 1.1 khoản 1 phần I Nghị quyết số01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM (Tòa kinh tế) theo thủ tục tố tụng dân sự.
2. Về thời hiệu khởi kiện :
Ngày 15/7/2005, các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Ngày 09/5/2006, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.
Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.
3. Về nội dung tranh chấp :
Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi ông Nguyễn Nhật Thanh phải hoàn trả 1,5 tỷ đồng tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận:
Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là bản Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 đã được người đại diện hợp pháp của bị đơn xác nhận chữ ký tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định giữa ông Nguyễn Nhật Thanh và ông Đỗ Bá Sơn có thỏa thuận việc chuyển nhượng 8.500 cổ phần của ông Nguyễn Nhật Thanh trong Công ty cổ phần ĐB Gas cho ông Đỗ Bá Sơn với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng và bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Nhật Thanh đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng nói trên.
Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai nhận của các đương sự tại phiên tòa thì việc chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa ông Thanh và ông Sơn không được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần ĐB Gas theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, Công ty cổ phần ĐB Gas mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chưa được 3 năm). Mặt khác, Công ty cổ phần ĐB Gas cũng chưa thực hiện việc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh (về việc chuyển nhượng cổ phần của ông Nguyễn Nhật Thanh là một trong 3 cổ đông sáng lập của công ty) theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật doanh nghiệp năm 1999.
Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần), hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa các bên là hợp đồng dân sự vô hiệu và các bên có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995.
Từ sự phân tích trên cho thấy yêu cầu của nguyên đơn đòi ông Nguyễn Nhật Thanh phải hoàn trả số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng là có căn cứ và hợp pháp, cần được chấp nhận.
Về ý kiến của đại diện bị đơn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 mà nguyên đơn dùng làm chứng cứ để khởi kiện đã được ông Nguyễn Nhật Thanh ký khống để sử dụng vào việc khác (chưa ghi nội dung), thực tế ông Thanh hoàn toàn không có thỏa thuận chuyển nhượng và cũng chưa có nhận số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng từ ông Đỗ Bá Sơn nên không chấp nhận hoàn trả số tiền này cho ông Sơn: Ý kiến này không có căn cứ để được chấp nhận vì tại Biên bản ghi lời khai do Phòng CSĐTTP về TTXH Công an TPHCM lập ngày 15/02/2006 cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn và người đại diện của bị đơn đã xác nhận chữ ký của bên chuyển nhượng trong bản hợp đồng chuyển nhượng cổ phần mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án để làm căn cứ khởi kiện đúng là của chữ ký ông Nguyễn Nhật Thanh mà không có chứng cứ nào để chứng minh việc ký đó là ký khống.
4. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :
- Ông Nguyễn Nhật Thanh phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho ông Đỗ Bá Sơn.
- Ông Đỗ Bá Sơn không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Aùp dụng khoản 1 Điều 19, điểm c khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 58 Luật doanh nghiệp năm 1999; Điều 131 và khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995;
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Nhật Thanh phải có trách nhiệm hoàn trả cho ôngĐỗ Bá Sơn số tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận là 1.500.000.000 đ (một tỷ năm trăm triệu đồng).
Ông Đỗ Bá Sơn có trách nhiệm hoàn trả cho người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần ĐB Gas là bà Lê Thị Thu Hồng các giấy tờ (bản chính) sau đây ngay sau khi nhận đủ số tiền nói trên:
- 34 tờ Hóa đơn giá trị gia tăng mua vật liệu và chi phí thi công xây dựng của bên bán phát hành cho bên mua là Công ty cổ phần ĐB Gas, bao gồm các hóa đơn: số 0069686 ngày 07/01/2005; số 0014809 ngày 27/5/2005; số 0014785 ngày 30/5/2005; số 0070601 và số 0070602 cùng ngày 01/6/2005; số 0070603 và số 0070604 cùng ngày 02/6/2005; số 0010993 ngày 03/06/2005; số 0066959 ngày 13/6/2005; số 0045003 ngày 10/7/2005; số 0026414 ngày 25/7/2005; số 0054911 ngày 28/6/2004; số 0053078 ngày 04/7/2004; số 0041360 ngày 04/7/2004; số 0041364 ngày 06/7/2004; số 0092758 ngày 07/7/2004; số 006355 ngày 07/7/2004; số 0020505 ngày 20/7/2004; số 0077760 ngày 20/8/2004; số 0007850 ngày 29/10/2004; số 0025076 và số 0022795 cùng ngày 02/11/2004; số 0083660 ngày 04/11/2004; số 0083745 và số 0098518 cùng ngày 05/11/2004; số 0079456 ngày 06/11/2004; số 0064560 ngày 07/11/2004; số 0065448 và số 0065449 cùng ngày 09/11/2004; số 0099813 và số 0099814 cùng ngày 12/11/2004; số 0025099 ngày 29/11/2004; số 0030454 ngày 27/12/2004; số 010216 ngày 05/01/2005.
- Chứng nhận bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ số 05/00/D10/93120/0003 của Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông cấp cho Công ty cổ phần ĐB Gas ngày 26/3/2005.
- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm số 05/00/D10/93330/0003 của Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông cấp cho Công ty cổ phần ĐB Gas ngày 19/4/2005.
2. Về án phí :
- Ông Nguyễn Nhật Thanh phải chịu án phí sơ thẩm là 28.500.000 đ (hai mươi tám triệu năm trăm ngàn đồng), nộp tại Thi hành án dân sự TPHCM.
- Ông Đỗ Bá Sơn không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 14.250.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002723 ngày 01 tháng 8 năm 2006 của Thi hành án dân sự TPHCM)
3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Đỗ Bá Sơn., nếu ông Nguyễn Nhật Thanh không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
|