Tranh chấp 352 m2 đất

Chủ đề   RSS   
  • #175130 29/03/2012

    hanglucquang

    Male
    Sơ sinh

    Ninh Thuận, Việt Nam
    Tham gia:29/03/2012
    Tổng số bài viết (1)
    Số điểm: 0
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Tranh chấp 352 m2 đất

    Thưa Luật Sư tất cả các nội dung tôi trình bày trong đơn là hoàn toàn khách quan đúng sự thật, tất cả đều thể hiện bằng hồ sơ pháp lý đầy đủ. Vậy tôi nhờ luật sư xem qua và tư vấn hổ trợ giúp tôi trên cơ sở đơn này và căn cứ một số điều luật để tôi có cơ sở chỉnh sữa lại đơn và đối thoại trực tiếp với bà Anh,  xin chân thành cảm ơn luật sư







    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

     



     

                                                                                  An Xuân, ngày     tháng  3  năm 2012

     

    ĐƠN KIẾN NGHỊ

    Về việc không đồng ý chỉ đạo tại Công văn số3928/UBND-NC ngày 01/9/2011

    và Công văn số5435/UBND-NC ngày 23/12/2012 và quy trình

     giải quyết tranh chấp đất đai của phó Chủ tịch

    UBND tỉnh Ninh Thuận

     

                 

            Kính  gửi: Ông Nguyễn Chí Dũng, Bí thư tỉnh ủy Ninh Thuận;

              Ông Nguyễn Đức Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận.

     

      Tôi tên: Hàng Phương Thành, sinh năm 1950, cư ngụ tại thôn An Xuân, xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận là bị đơn trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất với nguyên đơn bà Hàng Quỳnh Anh cùng cư ngụ tại thôn An Xuân, xã Xuân Hải (ủy quyền cho ông Trần Trọng Hải) cư ngụ thôn Đá Bắn, xã Hộ Hải.  

    Kính trình Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quan tâm xem xét cho tôi một việc như sau:      

      Nay tôi viết đơn này kiến nghị ý kiến chỉ đạo tại Công văn số3928/UBND-NC ngày 01/9/2011 của ông Đỗ Hữu Nghị phó Chủ tịch UBND tỉnh, Công văn số5435/UBND-NC ngày 23/12/2012 của ông Võ Đại, phó Chủ tịch UBND tỉnh và quy trình chỉ đạo giải quyết của UBND tỉnh về vụ tranh chấp 352 m2 đất cụ thể như sau:

      Về nguồn gốc 352 m2 đất tranh chấp tôi xin trình bày chi tiết như sau:

      Diện tích đất 352 m2 mà bà Hàng Quỳnh Anh tranh chấp với tôi có nguồn gốc do ông Lê Đình Chương khai phá thối công sang nhượng lại cho vợ chồng tôi, có vợ con ông Chương ký xác nhận. Khi vợ chồng tôi nhận thối công của ông Chương năm 1974 là 100 m2 đến năm 1980 ông Chương tiếp tục khai phá thối công sang nhượng thêm cho vợ chồng tôi 220 m2 cùng lúc nhận thối công trong năm 1980 tôi khai phá mở rộng thêm nên diện tích là 352 m2. Kể từ 1974 tôi là người duy nhất canh tác sử dụng, liên tục ổn định và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước đầy đủ từ xưa đến nay, đã được Đội thuế xã Xuân Hải và chi cục thuế huyện Ninh Hải ký chứng nhận. Do đất đai của vợ chồng tôi có nguồn gốc, có quá trình canh tác ổn định liên tục và thực hiện các chính sách nộp thuế cho Nhà nước đầy đủ đến năm 1982 khi Nhà nước có chủ trương thông báo rộng rãi kiêu gọi những người có đất phải tiến hành kê khai đăng ký ruộng đất. Nên vợ chồng tôi thực hiện đăng ký, được Hội đồng đăng ký ruộng đất xã Xuân Hải xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký ruộng đất năm 1985. Lẽ ra đất của tôi đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) từ năm 1992, nhưng do tại khu vực này chưa có bản đồ địa chính. Đến năm 1997 khu vực đất này được đo đạt, có bản đồ địa chính thì UBND xã Xuân Hải mới có chủ trương thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng yêu cầu người có đất tại khu vực này kê khai đăng ký để được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ, nên năm 1998 có 167 hộ có đất tại khu vực này đăng ký, được Hội đồng cấp phát ruộng đất UBND xã Xuân Hải xét duyệt, thì ngày 15/02/2000 vợ chồng tôi được UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ.

       Sau đây là các cở sở pháp lý và chứng cứ để chứng minh 352 m2 đất nêu trên là của vợ chồng tôi tạo lập:

       - Trong tổng diện tích 352 m2 đất nêu trên có 320 m2 là của vợ chồng tôi nhận thối công sang nhượng lại của ông Lê Đình Chương (ông Chương đã chết năm 1997). Ông Chương có làm giấy sang nhượng cho vợ chồng tôi ngày 16/12/1980 do chính ông Lê Đình Chương điểm chỉ đã được phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận giám định đúng là dấu vân tay của ông Lê Đình Chương đã điểm chỉ trong giấy sang nhượng ngày 16/12/1980 thể hiện tại kết luận số 48/KLGD ngày 30/9/2009. Do bà Hàng Quỳnh Anh cho đây là giấy dã mạo vì ông Chương đã chết từ lâu không thể nào ông Chương ký giấy này, nên bà Anh đề nghị UBND huyện cho trưng cầu giám định nay đã có kết quả rõ ràng.

      - Trong các nội dung: đơn nghi ngày 01/8/2008 bà Hàng Quỳnh Anh gửi UBND xã, trong biên bản hòa giải ngày 02/10/2008 tại UBND xã và tại báo cáo số84/BC-UBND ngày 09/10/2008 của UBND xã Xuân Hải. Thể hiện tất cả các nội dung bà Hàng Quỳnh Anh cùng có chung một nội dung khẳng định 352 m2 đất nêu trên có nguốn gốc do ông Lê Đình Chương khai phá thối công sang nhượng lại cho Mẹ. Như vậy việc bà Anh đã khẳng định 352 m2 đất nêu trên là do ông Chương khai phá thối công sang nhượng lại cho Mẹ mà bà Anh không có giấy tờ để chứng minh việc ông Chương mua bán cho Mẹ. Trong khi đó vợ chồng tôi mua của ông Chương có cơ sở và giấy tờ do chính ông Chương điểm chỉ đã được phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận giám định kết luận. Mặt khác các hộ liền kề, hộ lân cận, Hội Người cao tuổi thôn, Chủ nhiệm hợp tác xã, Trưởng Ban quản lý thôn qua các thời kỳ điều xác nhận diện tích 352 m2 đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Lê Đình Chương khai phá thối công sang nhượng lại cho vợ chồng tôi. Kể từ đó vợ chồng tôi trồng hoa màu như: Mía, Chuối, Cà, Hoa Cúc, Hoa Vạn Thọ.... bán hàng năm, tất cả nhân dân 9 thôn trên toàn xã lớn nhỏ ai cũng biết. Đến tháng 01 năm 2000 tôi mua thêm của cô Trương Thị Hoa một phần đất Mồ Mã liền kề diện tích 352 m2 và phát thêm bờ ranh phía Tây nên tổng diện tích là 505 m2. Hàng ranh phía Tây đất của tôi giáp với đất của cô Trương Thị Hoa không được thẳng bị lồi lởm nên năm 2003 khi tôi xây dựng nhà ở và quán cafe tôi có thương lượng với cô Trương Thị Hoa cho tôi lấy hàng ranh phía Tây cho thẳng để xây dựng cho đẹp giữa hai bên, nên lúc này diện tích tôi xây dựng còn lại bị sai số so với 505 m2.    

      - Tại bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 27/10/2000 và bản án phúc thẩm số 469/2006/DSPT ngày 08/11/2006 tất cả 5/6 anh chị em ruột của tôi và bà Anh đều xác nhận diện tích 352 m2 đất nêu trên là tài sản do vợ chồng tôi tạo lập mà có. Không phải di sản thừa kế của Mẹ chết để lại. Duy nhất chỉ có một mình bà Anh cho rằng đây là tài sản của mẹ chết để lại. Nên Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã bác yêu cầu chia thừa kế của bà Hàng Quỳnh Anh.

    - Việc bà Anh cố tình khai man đã bị chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng bát. Nên bà Anh nhờ các con của ông Nguyễn Lộc đứng ra khai man diện tích 352 m2 đất tranh chấp. Vì ông Nguyễn Lộc và ông Trần Quốc Phú chồng bà Anh là anh em kết nghĩa, người cùng sớm từ xã Hải Hà, huyện Hải Hậu, tỉnh Hà Nam Ninh cũ. Ông Phú và ông Lộc cùng lúc di cư vào Ninh Thuận năm 1945 sinh sống sau đó ông Trần Quốc Phú tham gia công tác cho chính quyền thực dân pháp tại nhà thờ Phan rang hiện nay (trích lời xác nhận của ông Trần Hùng Minh con ông Phú và bà Anh) Vậy trước đây bà Anh cho rằng 352 m2 đất tranh chấp là của ông Lê Đình Chương sang nhượng lại cho Mẹ chứ không phải ông chương sang nhượng lại cho vợ chồng tôi nên bà Anh yêu cầu tôi đưa ra giấy tờ để chứng minh nay tôi đưa ra giấy tờ đã được phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận giám định kết luận đúng là giấy do chính ông Chưng sang nhượng lại cho tôi thì bà Anh lại trớ qua nhờ các con ông Nguyễn Lộc đứng ra làm chứng cho bà là hoàn toàn vô lý không khách quan vì giữa hai gia đình ông Phú chồng bà Anh và ông Lộc có mối quan hệ anh em kết nghĩa như tôi đã tình bày nêu trên.

      Qua nội dung trình tự tôi nêu trên cho thấy rằng, việc bà Anh tranh chấp 352 m2 đất với tôi là vô căn cứ, cầu mây, thể hiện sự liều lĩnh. Cũng may mà diện tích 352 m2 đất của tôi có nguồn gốc, sang nhượng có giấy tờ rõ ràng, có quá trình sử dụng liên tục ổn định, vợ chồng tôi đã làm nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước đầy đủ từ xưa đến nay, được nhân dân và chính quyền địa phương các cấp từ thôn đến xã và huyện công nhận. Như vậy việc năm 2000 UBDN huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi là đúng trình tự quy định các văn bản pháp luật về đất đai và luật đất đai  giai đoạn năm 1987, 1993 đã quy định.

      Việc năm 2008 bà Hàng Quỳnh Anh khiếu nại cho rằng năm 2000 UBDN huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi là sai đã được UBND tỉnh tiếp nhận, ban hành Quyết định số2920/QĐ-UBND ngày 15/05/2008 chỉ đạo UBND huyện hủy giấy chứng nhận QDSĐ của vợ chồng tôi để giải quyết tranh chấp cho thấy UBND tỉnh chỉ xem xét một chiều, không khách quan. Lý do tại bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 27/10/2000 và đơn ghi ngày 01/08/2008 thể hiện, bà Anh đã biết rõ diện tích 352 m2 đất của tôi đã được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng mãi đến năm 2008 đã hết thời hiệu khiếu nại là 08 năm theo quy định của Pháp luật về đất đai và Luật khiếu nại tố cáo. Nhưng đơn của bà Anh vẫn được xem xét thụ lý giải quyết để hủy giấy chứng nhận QSDĐ của tôi một cách vô căn cứ.

      Về việc chỉ đạo tại Công văn số3928/UBND-NC ngày 01/9/2011 và Công văn số5435/UBND-NC ngày 23/12/2012 của phó Chủ tịch UBND tỉnh ông Đỗ Hữu Nghị và ông Võ Đại. Có cùng nội dung chỉ đạo UBND huyện Ninh Hải buộc tôi phải thực hiện ký cam kết tự tháo dỡ toàn bộ các công trình, nhà ở mà tôi đã xây dựng trên diện tích đất 505 m2 nếu không thực hiện ký cam kết thì UBND tỉnh sẽ lập thủ tục cưỡng chế tháo dỡ theo yêu cầu của bà Hàng Quỳnh Anh. Đối với quy trình giải quyết của UBND tỉnh Tôi giải trình cụ thể như sau:

      - Tại thời điểm năm 2003 diện tích 352 m2 đất của tôi cộng với diện tích đất giáp ranh tôi mua của cô Trương Thị Hoa năm 2000 và tôi phát thêm bờ ranh phía Tây nên tổng diện tích đất của tôi là 505 m2 toàn bộ diện tích đất này tôi đã xây dựng 01 căn nhà cấp 04 và 01 căn nhà một trệch hai lầu kiên cố, tại thời điểm này vợ chồng tôi  xây dựng có đầy đủ các giấy tờ về quyền sử dụng đất do Nhà nước công nhận. Quá trình tôi xây dựng, sử dụng ổn định cho đến nay đã 10 năm bà Anh và chính quyền địa phương chưa một lần xử lý ngăn chặn việc xây dựng của tôi, vì đây là đất của tôi chính quyền và nhân dân cả xã ai cũng biết. Mặt khác tại khu vực này nói chung và tại thửa đất số 121 tờ bản đồ số 30b nói riêng, căn cứ vào hồ sơ địa chính và bản đồ địa chính do trung tâm đo đạt bản đồ tỉnh xác lập năm 2001 thể hiện thửa đất số 121 tờ bản đồ số 30b là đất ở, phù hợp với quy hoạch tại địa phương. Nên 100% các hộ có đất tại khu vực này đã cất nhà ở ổn định kiên cố. Nay UBND tỉnh ban hành 02 văn bản nêu trên buộc vợ chồng tôi phải thực hiện ký cam kết tháo dỡ toàn bộ các công trình mà tôi đã xây dựng trên diện tích 505 m2 đất của tôi, nếu vợ chồng tôi không thực hiện cam kết tháo dỡ thì UBND tỉnh sẽ lập thủ tục cưởng chế tháo dỡ. Việc UBND tỉnh vì bà Hàng Quỳnh Anh (mẹ ông Trần Trọng Hải) không xem xét khách quan, lập thủ tục cưỡng chế đối với tôi là trái với quy định của pháp luật, không phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, không hợp tình hợp lý, thiếu tinh thần trách nhiệm gây mất lòng tin trong nhân dân. Đây là việc làm mà UBND tỉnh đã gây ức chế cho vợ chồng tôi, hậu quả xảy ra thì UBND tỉnh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cơ quan chức năng.

      Đối với quy trình giải quyết của UBND tỉnh Tôi xin được trình và có ý kiến cụ thể như sau:

      Năm 2007 bà Anh mới phát sinh tranh chấp quyền sử dụng đất với vợ chồng tôi bị UBND huyện bác Yêu cầu của bà Anh, công nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi tại Quyết định số3086/QĐ-UBND ngày 23/11/2007. Bà Anh không đồng ý khiếu nại đến UBND tỉnh, được UBND tỉnh ban hành Quyết định số2920/QĐ-UBND ngày 15/5/2008 chỉ đạo UBND huyện hủy giấy chứng nhận QSDĐ của vợ chồng tôi giao UBND huyện giải quyết tranh chấp. Ngày 20/10/2009 UBND huyện ban hành Quyết định số3298/QĐ-UBND vẫn công nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi lý do: Bà Anh không chứng minh được nguồn gốc đất, quá trình sử dụng và hồ sơ pháp lý 352 m2 đất là di sản thừa kế do Mẹ chết để lại. Bà Anh khiếu nại quyết định đến UBND tỉnh, được UBND tỉnh ban hành Thông báo số652/TB-VPUB ngày 01/6/2010 giao Chủ tịch UBND huyện thu hồi lại Quyết định số3298/QĐ-UBND ngày 20/10/2009 của Chủ tịch UBND huyện. Ngày 05/7/2010 UBND huyện có văn bản số532/UBND-NC phản hồi thông báo số652/TB-VPUB ngày 01/6/2010 của UBND tỉnh, yêu cầu UBND tỉnh ban hành quyết định thu hồi Quyết định số3298/QĐ-UBND ngày 20/10/2009 của Chủ tịch UBND huyện do trước đây UBND tỉnh chỉ đạo UBND huyện thực hiện. Ngày 01/9/2010 UBND tỉnh tiếp tục ban hành văn bản số3928/UBND-NC chỉ đạo UBND huyện ban hành Quyết định thu hồi lại quyết định số3298/QĐ-UBND ngày 20/10/2009 chuyển vụ việc đến tòa án giải quyết. Lý do thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án tỉnh. Ngày 24/09/2010 Chủ tịch UBND huyện thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh qua nhiều văn bản, ban hành Quyết định số1477/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số3298/QĐ-UBND ngày 20/10/2009 của Chủ tịch UBND huyện ban hành trước đây. Tiếp đó UBND tỉnh ban hành thông báo số1489/TB-UBND ngày 08/9/2011 và văn bản số5453/UBND-NC ngày 23/12/2011 chỉ đạo UBND huyện buộc vợ chồng tôi phải thực hiện ký cam kết tháo dỡ toàn bộ các công trình mà tôi đã xây dựng trên diện tích đất 505 m2. Nếu vợ chồng tôi không thực hiện cam kết tháo dỡ thì UBND tỉnh sẽ lập thủ tục cưởng chế tháo dỡ.

      Qua các trình tự tôi đã trình bày về nguồn gốc đất, các hồ sơ pháp lý và trình tự các văn bản, quyết định: của Tòa án, UBND huyện, UBND tỉnh mà tôi đã chứng minh nêu trên cho thấy việc ban hành các văn bản giải quyết của UBND tỉnh không mang tính khách quan, không tuân thủ các quy định của pháp luật đất đai và pháp luật thừa kế. Cụ thể như sau:

      - Việc UBND tỉnh ban hành  quyết định số 2920/QĐ-UBND ngày 15/05/2008 chỉ đạo UBND huyện hủy giấy chứng nhận QDSĐ của vợ chồng tôi để giải quyết tranh chấp là không đúng lý do: tại bản án sơ thẩm năm 2000 bà Anh đã biết rõ diện tích 352 m2 đất nêu trên UBND huyện đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi nhưng bà Anh không tiếp tục khiếu nại, mãi đến năm 2007 thì thời hiệu khiếu nại đã hết 07 năm được quy định tại Điều 31, 32 của luật khiếu nại tố cáo đã được sửa đổi bổ sung) bà Hàng Quỳnh Anh mới khiếu nại nhưng vẫn được UBND tỉnh tiến hành thụ lý giải quyết hủy giấy chứng nhận QSDĐ của tôi.

      - Sau khi UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2920/QĐ-UBND ngày 15/05/2008 chỉ đạo UBND huyện hủy giấy chứng nhận QDSĐ của vợ chồng tôi tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật. Khi UBND huyện ban hành Quyết định số3298/QĐ-UBND Ngày 20/10/2009 lần thứ 02 công nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi thì UBND tỉnh lại ban hành Thông báo số652/TB-VPUB ngày 01/6/2010 chỉ đạo UBND huyện hủy Quyết định số3298/QĐ-UBND Ngày 20/10/2009 của Chủ tịch UBND huyện không công nhận quyền QSDĐ cho vợ chồng tôi, chuyển Tòa án giải quyết (theo đề suất của Sở Tài nguyên và Môi trường). Điều này cho thấy cán bộ tham mưu cho UBND tỉnh luôn lèo lái bảo vệ cho bà Hàng Quỳnh Anh bằng mọi giá bất chấp pháp luật đã quy định, gây bất lợi cho vợ chồng tôi. Lẽ ra sau khi hủy giấy chứng nhận QSDĐ của vợ chồng tôi bà Hàng Quỳnh Anh không có các giấy tờ được quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 50 của luật đất đai để chứng minh đó là di sản thừa kế của Mẹ chết để lại thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai phải thuộc UBND các cấp giải quyết như đã quy định tại Điều 136 của luật đất đai năm 2003 đã được sữa đổi bổ sung.

    - Trong quá trình bà Hàng Quỳnh Anh tranh chấp thừa kế với tôi tại Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm bà Anh không chứng minh được cơ sở pháp lý về diện tích 352 m2 đất nêu trên là di sản thừa kế do Mẹ chết để lại thì lẻ ra thẩm quyền giải quyết phải thuộc UBND các cấp giải quyết được quy định tại Nghị quyết số02/2004/NQ-HDTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

      Như vậy đất của tôi bà Hàng Quỳnh Anh ngang nhiên lôi ra tranh chấp một cách vô căn cứ chỉ trình bày qua đơn không có cơ sở pháp lý để chứng minh, do bà Anh khai man. Nhưng lại được UBND tỉnh hủy giấy chứng nhận QSDĐ của tôi không tiếp tục giải quyết tranh chấp, chuyển Tòa án giải quyết giam hồ sơ của tôi theo yêu cầu của bà Anh đã gây thiệt hại quá lớn đến quyền lợi ích hợp pháp của vợ chồng tôi.

    Thưa lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh điều đáng nói ở đây là: Cả quá trình UBND tỉnh thụ lý giải quyết, ban hành hàng loạt các quyết định và các văn bản nêu trên chỉ duy nhất tôi được Thanh tra tỉnh mời tôi làm việc một lần năm 2008 trong lúc tôi đang lâm bệnh, tinh thần không ổn định. Kể cả khi tôi có đơn khiếu nại quyết định số 2920/QĐ-UBND ngày 15/05/2008 của UBND tỉnh và công văn số3928/UBND-NC ngày 01/9/2010 của UBND tỉnh vẫn không được UBND tỉnh xem xét giải quyết. Rõ ràng các cơ quan tham mưu trực thuộc UBND tỉnh ém toàn bộ đơn của tôi đã gửi, thậm chí tôi đã nhiều lần xin được đăng ký trực tiếp đối thoại với lãnh đạo UBND tỉnh vẫn không được cơ quan chức năng xem xét bố trí. Nhưng khi bà Anh cần gặp lãnh đạo UBND tỉnh bất cứ ai, lúc nào thì lãnh đạo UBND tỉnh củng sẳn sàn và UBND tỉnh luôn giải quyết vụ việc theo yêu cầu của bà Hàng Quỳnh Anh mặt dù UBND xã và UBND huyện có nhiều văn bản phản hồi đến UBND tỉnh về cách giải quyết của UBND tỉnh.

    Tiện đây tôi cũng trình bày cho lãnh đạo Tỉnh ủy và UBND tỉnh biết rõ lý do tại sao vụ việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng 352 m2 đất nêu trên giữa tôi và bà Anh lại bị các cơ quan chức năng tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết một cách vô tâm, thiếu trách nhiệm, trái pháp luật và không đúng thẩm quyền luôn có lợi cho bà Hàng Quỳnh Anh, để lại hậu quả quá lớn cho gia đình tôi mà không được xem xét, mặc dù tôi đã nhiều lần kêu oan. Vì tại thời điểm giải quyết tranh chấp giai đoạn năm 2006 đến 2010 ông Trần Mạnh Tường con bà Hàng Quỳnh Anh là Trưởng phòng tổ chức Sở y tế tỉnh Ninh Thuận trong khi vụ việc giải quyết tranh chấp này người tham mưu trực tiếp và tác động cho UBND tỉnh giải quyết gồm: ông Võ Văn Lập thẩm phán Tòa án tỉnh có vợ là Bác sỹ Thùy Dương hiện công tác tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận, ông Hàng Minh Quang Trưởng phòng xét khiếu tố Thanh tra tỉnh có vợ là Bác sỹ Trang hiện đang công tác tại Trung tâm y tế huyện Ninh Hải và ông Nguyễn Tấn Tùng phó giám đốc Sở tài nguyên - Môi trường tỉnh có vợ là Dược sỹ hiện đang công tác tại Công ty dược tỉnh Ninh Thuận. Như vậy cả 03 người này có vợ làm trong ngành y tế trực thuộc Sở y tế tỉnh Ninh Thuận nằm trong tầm quản lý và điều động công tác nhân sự của ông Trần Mạnh Tường uy danh là Trưởng phòng tổ chức Sở y tế. Nên ông Tùng, ông Lập và ông Quang đã bị ông Trần Mạnh Trường tác động nhờ cậy phối hợp tham mưu cho UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản có lợi cho bà Hàng Quỳnh Anh gây bất lợi cho vợ chồng tôi. Trong quá trình giải quyết tranh chấp tôi được cán bộ Sở Tài nguyên - Môi trường và cán bộ Thanh tra tỉnh thấy vụ việc cán bộ tham mưu luôn bóp méo sự thật giải quyết ép vợ chồng tôi nên họ đã cho tôi biết để cảnh giác, biết vậy nên tôi đã nhiều lần kiêu cứu, khiếu nại nhưng vẫn không được xem xét.

    Vậy tôi đề nghị Lãnh đạo UBND tỉnh cho tôi ít nhất một lần được đối thoại trực tiếp với bà Hàng Quỳnh Anh trước các cơ quan chuyên môn và lãnh đạo UBND tỉnh để sự việc được sáng tỏ, đồng thời tôi đề nghị tổ chức tỉnh Ủy và UBND tỉnh cần phải xem xét lịch sử chính trị, phẩm chất đạo đức của gia đình bà Hàng Quỳnh Anh và chồng bà ông Trần Quốc Phú (là cha Mẹ ruột của ông Trần Mạnh Trường Chánh Thanh tra Sở y tế và ông Trần Trọng Hải) cũng như lịch sử chính trị và phẩm chất đạo đức đối với gia đình tôi. Tôi cũng đề nghị lãnh đạo UBND tỉnh cần phải phối hợp Công an các cấp và chính quyền địa phương đưa gia đình tôi và gia đình bà Anh ra trước quần chúng nhân dân để nhân dân góp ý đánh giá phê bình trước các cơ quan chức năng cơ quan chức năng để các cơ quan chức năng hình dung mọi sự việc mà lâu nay gia đình tôi và gia đình bà Anh ai là người đã gây ra bao nhiêu khó khăn phiền hà cho nhân dân và chính quyền địa phương, đồng thời các cơ quan chức năng sẽ biết rõ 352 m2 đất đang tranh chấp có nguồn gốc từ đâu.

    Nay tôi viết đơn này kính đề nghị Bí thư tỉnh Ủy và Chủ tịch UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo cơ quan chuyên môn xem xét lại toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai nêu trên một cách toàn diện, khách quan, đúng pháp luật trả lại sự công bằng cho gia đình tôi bằng cách khôi phục lại giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi hoặc tiếp tục tiến hành giải quyết tranh chấp theo tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh tại Quyết định số2920/QĐ-UBND ngày 15/05/2008 chỉ đạo UBND huyện hủy giấy chứng nhận QDSĐ của vợ chồng tôi, tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật để vụ việc được kết thúc đúng theo quy trình giải quyết tranh chấp mà pháp luật đã quy định, trả lại quyền lợi ích hợp pháp cho vợ chồng tôi đã bị bà Hàng Quỳnh Anh xâm hại lâu nay dưới sự bao che của một số bán bộ tham mưu cho UBND tỉnh.

    Vì không lý nào đất của tôi nhận thối công sang nhượng của ông Lê Đình Chương có giấy tờ đã phòng khoa học hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận giám định kết luận, tôi canh tác liên tục ổn định hàng năm đến nay đã 38 năm và hàng năm tôi phải làm nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước đầy đủ được đội thuế xã và Chi cụ thuế huyện chứng nhận, vợ chồng tôi đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận đăng ký ruông đất năm 1985 và UBND huyện cấp giấy chứng nhận QSDĐ năm 2000 nhưng lại bi UBND tỉnh ban hành các văn bản không công nhận QSDĐ cho vợ chồng tôi, buộc vợ chồng tôi phải ký cam kết thực hiện tháo dỡ toàn bô căn nhà và các công trình mà tôi đã xây dụng kiên cố từ năm 2003.

    Rất nong được sự xem xét chỉ đạo giải quyết công minh, đúng pháp luật của Bí thư tỉnh Ủy và Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận. Tôi xin thành thật cảm ơn!

                                                                                                             Người kính đơn

     

     

     

     

           Hàng Phương Thành    

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     
    3072 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận