B. Bộ trưởng Bộ giáo dục - đào tạo Phạm Vũ Luận:
1. Về việc thành lập mới các trường đại học:
Bộ trưởng trả lời:
Giai đoạn trước đây theo mô hình ưu tiên về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn nặng về chữ, nhẹ về dạy nghề và dạy người, nặng về lý thuyết, khả năng thực hành yếu, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, làm việc tập thể chưa cao.
Trong quá trình chuyển đổi, chúng tôi đã chỉ đạo các trường đại học phải đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo, hướng vào việc hình thành phát triển năng lực.
Thứ hai, tranh thủ hợp tác quốc tế để cập nhất các chương trình đào tạo, nhất là những chương trình đào tạo liên quan đến khoa học, công nghệ, kỹ thuật, những ngành nghề các nước có thế mạnh mà chúng ta cần.
Thứ ba, tăng cường hoạt động kiểm định.
Giai đoạn 2006 - 2010, chúng ta thành lập số lượng trường đại học tương đối lớn với hơn 180 trường; bình quân 1 năm hơn 30 trường.
Từ năm 2011 đến nay, số lượng thành lập trường giảm đi đáng kể, 7 trường/1 năm; trong đó, một số trường của quốc phòng an ninh là do nhu cầu cần phải thành lập, khối dân sự rất ít.
Theo quy hoạch mới Thủ tướng đã phê duyệt, điều chỉnh, về cơ bản sẽ không thành lập mới thêm các trường, trừ một số trường đã có chủ trương và trường hợp đặc biệt.
Còn lại chỉ rà soát quy hoạch, những trường nào đã được cấp phép nhưng chưa triển khai, chưa hoạt động sẽ thu hồi giấy phép; những vùng có nhu cầu về đào tạo và có ý nghĩa quốc phòng an ninh cùng các ý nghĩa khác, vẫn cho thành lập trường nhưng sẽ rất hạn chế. Về cơ bản, quy hoạch mà Thủ tướng phê duyệt đến nay sẽ không có thay đổi.
Hiện nay, chúng tôi đã thông báo tạm dừng năm 2015 không nhận các hồ sơ mới xin thành lập trường. Tiến tới sẽ có rà soát và bổ sung…
UBND các tỉnh luôn trình bày với Chính phủ, với Thủ tướng Chính phủ, với Bộ GD&ĐT nguyện vọng cháy bỏng - được thể hiện trong Nghị quyết của tỉnh ủy không phải một khóa mà nhiều khóa - về việc thành lập các trường ĐH.
2. Về đạo đức, ý thức của học sinh, sinh viên:
Giáo dục toàn diện đối với học sinh sinh viên đang là vấn đề ngành Giáo dục đang tập trung chú ý. Bộ GD&ĐT đã có một số thay đổi trong chỉ đạo, cố gắng thực hiện giáo dục toàn diện cho học sinh:
Cụ thể: Hướng các cháu có những hoạt động trải nghiệm; bằng các giải pháp gắn nhà trường với xã hội, ngoài việc dạy của giáo viên ở trên lớp có sự phối hợp giáo dục các chủ thể khác như đoàn, hội cựu chiến binh, hội cựu giáo chức, hội phụ nữ,… để giáo dục truyền thống, giáo dục lịch sử cho các cháu.
Bộ GD&ĐT đang chỉ đạo và xây dựng kế hoạch cụ thể đổi mới phương pháp, cách dạy và học các môn học liên quan đến đạo đức trong nhà trường như môn giáo dục công dân, chính trị, lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh, sinh viên vào các hoạt động trong thời gian tập huấn đầu năm, đầu khóa học, phối hợp với trung ương Đoàn để thực hiện …
So sánh tỷ lệ giữa tuổi và đạo đức – “tuổi càng nhỏ thì đạo đức tốt hơn khi lớn tuổi” - sẽ là khiên cưỡng. Vì đạo đức của học sinh ở bậc học trên được đánh giá với 50% là kết quả học tập: Phải học giỏi hoặc khá thì mới được đánh giá đạo đức tốt, còn nếu học kém thì đạo đức không thể được xếp loại tốt. Vì phải “vừa hồng vừa chuyên” nên mức độ đánh giá khắt khe hơn rất nhiều đối với học sinh lứa tuổi lớn hơn.
Qua theo dõi phong trào HS - SV thông qua phối hợp với với các tỉnh, thành phố (đặc biệt các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh) đối với các phong trào liên quan đến những sự kiện lớn của đất nước trong thời gian vừa qua cho thấy: Ý thức của học sinh, sinh viên của chúng ta cơ bản rất tốt, đúng đắn.
3. Về vần đề dạy ngoại ngữ trong trường học:
Khi tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, chúng tôi đã tiến hành các đợt khảo sát ở các môn học, các bậc học có dạy Ngoại ngữ và thấy rằng, cách dạy, cách học ngoại ngữ của chúng ta hiện nay không giống với cách dạy - học ngoại ngữ trên thế giới.
Chúng ta chủ yếu dạy ngữ pháp, bởi vậy học sinh dù đã học hết phổ thông nhưng cả nói và nghe đều kém. Đội ngũ thầy cô giáo dạy ngoại ngữ của chúng ta cũng chưa đạt chuẩn. Thậm chí, có những học sinh Hà Nội, học sinh thành phố lớn, có đi học thêm tại các trung tâm, các em học giỏi, phát âm chuẩn lại bị cô giáo chê.
Từ thực thế đó, dứt khoát phải chấm dứt tình trạng dạy học như hiện tại.
Xin nói thêm, trước đây, khi chúng ta nói thi ngoại ngữ bắt buộc nhưng thực sự không hẳn là như vậy. Vì những nơi chưa đủ điều kiện dạy ngoại ngữ vẫn được thi môn thay thế.
Bởi vậy, tinh thần với môn Ngoại ngữ sẽ có sự điều chỉnh và hiện nay tập trung vào khâu đào tạo lại đội ngũ giáo viên giảng dạy Ngoại ngữ tại các nhà trường và làm thật tốt khâu này.
Thứ hai, sẽ có một chương trình, bộ sách giáo khoa mới, cùng với đó là cách dạy, cách học mới ... Đẩy mạnh theo hướng như vậy và lúc đó chúng ta sẽ tổ chức việc có thể bắt buộc thi môn tiếng Anh, đảm bảo đi đúng hướng, đảm bảo đúng hiệu quả của chương trình.
Sau khi chúng ta hoàn tất việc đào tạo lại, chuẩn hóa được đội ngũ giáo viên, có bộ sách mới, cách học mới thì lúc đó mới có thể tổ chức ngoại ngữ bắt buộc, đảm bảo đúng hiệu quả của Đề án ngoại ngữ quốc gia.
4. Vấn đề việc làm cho sinh viên:
Vấn đề việc làm của học sinh - sinh viên nói riêng và vấn đề việc làm nói chung là bàn về thị trường lao động với các yếu tố cung - cầu về nhân lực về các thể chế và các tổ chức tham gia vào thị trường này.
Bộ GD&ĐT và các trường ĐH, CĐ là một bộ phận nằm ở phần cung của thị trường lao động. Trách nhiệm của Bộ trong việc để một số lượng học sinh sinh viên sau tốt nghiệp đại học cao đẳng chưa có việc làm, chúng tôi kiểm điểm và thấy có những khuyết điểm sau đây:
Thứ nhất là trong một thời gian dài, mô hình phát triển giáo dục trong đó có giáo dục đại học của chúng ta chú trọng quy mô, số lượng mà chưa chú ý đúng mức đến các điều kiện đảm bảo chất lượng.
Thứ hai, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học thi cử của các trường đại học chủ yếu xuất phát tử khả năng hiện có của các nhà trường tổ chức đào tạo theo khả năng mình có. Chưa chú ý, chưa có hoạt động thiết thực để tổ chức hoạt động đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Thứ ba, quy trình mở trường, cấp phép hoạt động cho các trường ĐH, CĐ còn thiếu các quy định chặt chẽ, chưa chú trọng đến nhu cầu thực tế của xã hội, của địa phương. Các chương trình đào tạo chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, trong nước và thế giới.
Nội dung đào tạo nặng về truyền thụ kiến thức một chiều, nhẹ thực hành, chưa chú trọng đến rèn luyện các kĩ năng mềm về khả năng làm việc nhóm, ví dụ công nghệ thông tin, ngoại ngữ và hoạt động xã hội.
Trong thời gian vừa qua, Bộ GD&ĐT đã có các giải pháp để cải thiện tình hình theo hướng:
Hạn chế việc thành lập các trường ĐH, CĐ. Cải tiến, thay đổi quy trình cấp phép thành lập, hoạt động. Khắc phục tình trạng có trường ĐH được thành lập nhưng chưa có cơ sở vật chất, chưa có thầy cô giáo mà đã có chỉ tiêu tuyển sinh, đã đào tạo.
Gần đây chúng tôi đã quy định là các trường ĐH khi có dự án phù hợp với quy hoạch phát triển KT - XH thì được xem xét thành lập. Sau khi có dự án thành lập, để được phép hoạt động thì phải triển khai thực hiện được các cam kết trong dự án, phải có cơ sở vật chất, phải có đội ngũ giáo viên cơ hữu của nhà trường thì mới được xem xét để cấp phép đào tạo các chuyên ngành.
Cùng đó, khi mở các chuyên ngành, có cảnh báo với những ngành nghề, những lĩnh vực đã có quy mô đào tạo lớn rồi thì không cho mở nữa.
Ví dụ, khối kinh tế quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng, kể cả khối sư phạm trong ngành giáo dục - Bộ GD&ĐT đã có thông báo về sự bão hòa của thị trường và cũng có những thông báo ưu tiên mở các ngành nghề và nhu cầu phát triển KT - XH của cả nước cũng như của các địa phương có đòi hỏi.
Chúng tôi cũng đã chủ động rà soát và kiến nghị với Thủ tướng chính phủ cho điều chỉnh mạng lưới các cơ sở GD ĐH phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực và định hướng phát triển KTXH. Kiến nghị với Thủ tướng và Thủ tướng đã quyết định điều chỉnh chỉ tiêu phấn đấu 450 SV/ 10.000 dân trước đây xuống còn trên 200 SV/ 10.000 dân.
Chúng tôi đã cùng các Bộ, ngành các địa phương rà soát lại mạng lưới các cơ sở GD ĐH; dừng tiếp nhận hồ sơ nâng cấp thành lập mới các cơ sở giáo dục; tạm dừng bồi dưỡng cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho người tốt nghiệp cử nhân muốn trở thành giáo viên THPT; chỉ đạo các trường đổi mới phương pháp nghiệp vụ sư phạm với sự tham gia trực tiếp của các doanh nghiệp, của các nhà sử dụng lao động và công bố các chuẩn đầu ra của từng chuyên ngành;
Cùng đó, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các nhà trường công bố công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng lên các phương tiện đại chúng để HSSV xem xét lựa chọn, để các nhà sử dụng lao động xem xét cân nhắc chất lượng đầu ra và cả xã hội giám sát.
Bộ cũng đã thành lập 2 Trung tâm kiểm định chất lượng ở 2 ĐHQG Hà Nội và TPHCM tham gia vào mạng lưới kiểm định quốc tế. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, rà soát việc này. Đồng thời, Bộ GD&ĐT đã thành lập Trung tâm đào tạo hỗ trợ cung ứng nguồn nhân lực.
Về vấn đề cung cấp nhân lực cho thị trường việc làm còn liên quan tới nhiều chủ thể khác. Thị trường lao động cũng giống như thị trường hàng hóa – có người cung ứng, có người cần sản phẩm – những cũng cần các thiết chế, các kênh. Chúng ta hiện nay cũng đã có các sàn giao dịch, có trung tâm giới thiệu việc làm, các hoạt động khác cần củng cố.
Chúng tôi đã cùng Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh Xã hội bàn về việc này để hai bên chuẩn bị nội dung, thống nhất các công việc cùng làm, tổ chức một số hoạt động cần nghiên cứu để thảo luận phối kết hợp trong việc cung ứng nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu của thị trường và có những việc vượt thẩm quyền sẽ trình lên Thủ tướng Chính phủ.
Còn trong các đề án, chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết 29 mà Thủ tướng Chính phủ đã kí – có một loạt đề án giao cho các Bộ, ngành – trong đó có Bộ GD&ĐT để xử lí các vấn đề liên quan đến cân đối giữa cung đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của thị trường lao động.