Chào bạn snowflake1405.
1. Trường hợp A thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa với B qua mạng, nhưng không có giấy tờ hợp đồng mà chỉ có nội dung thỏa thuận qua những lần trao đổi bằng email. Những lần giao dịch trước đó, B đều thực hiện đúng và đầy đủ nên tạo được sự tin tưởng cho A. Những lần giao dịch sau, B không có khả năng thực hiện việc lấy hàng để giao cho A nên nhiều lần trì hoãn việc giao hàng. A chỉ có tên, số tài khoản, số đt và các đoạn trao đổi email thì có thể kiện B được không?
Trường hợp như trong tình huống thì A muốn giải quyết theo trình tự của vụ án hình sự. A không thể làm đơn khởi kiện mà chỉ được quyền làm đơn tố cáo gởi cơ quan công an nơi xãy ra sự việc (do không biết địa chỉ của người bị tố cáo) là nơi A gởi tiền mua hàng.
Và nếu kiện được, thì B bị kiện về tội gì, là lừa đảo hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (vì theo tôi được biết thì ở đây 2 bên đã thực hiện 1 giao dịch dân sự là mua bán hàng hóa, và B nhận được tài sản từ việc giao kết hợp đồng, những lần giao dịch đầu cũng đã thành công, sau đó mới có sự việc trì hoãn giao hàng.)
Nếu số tiền chiếm đoạt trên 2 triệu thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm.
2. Trường hợp: đơn đặt hàng được thể hiện dưới dạng email, không có chữ ký của bên bán và bên mua cũng như không có bất cứ thông tin, điều khoản nào khác ngoại trừ thông tin của người đặt hàng, thì có hiệu lực pháp lý trong trường hợp nó được dùng làm chứng cứ khởi kiện không?)
Khi tố cáo, A có quyền cung cấp mọi "tài liệu, đồ vật" cho cơ quan tiến hành tố tụng; Chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng (CA,VKS,TA) mới có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ.