vụ án Nguyễn Thành Trung và Lâm Quốc Cường về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Thủ đoạn lừa đảo của Nguyễn Thành Trung Giám đốc công ty bảo vệ Tây Bình- Tây Sơn lừa đảo trên 30 nạn nhân chiếm đoạt hơn 30 tỷ đồng các nạn nhân mắt trang số tiền vì sau khi chiếm đoạt bị cáo tiêu xài mua xe, mua nhà sau đó cầm cố ngân hàng và mua bán qua lại. Ngoài ra Trung còn giả giấy tờ nhà trên 30 bộ hồ sơ nhà đất với sự giúp sức của Lâm Quốc Cường đã in giả con dấu của phòng môi trường, cục thuế, chữ ký các lãnh đạo quận huyện để làm hồ sơ nhà đất giả giống như thật với đầy đủ giấy tờ sổ đỏ, hồ sơ trước bạ, biên lai thuế đều được làm giả… sau đó Trung dùng nó làm bằng chứng để đi vay tiền và tuyên bố vỡ nợ.
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1. Ngày 18/8/2007, Nguyễn Thành Trung ký giấy vay tiền của ông Võ Thành Trung (ngụ: 991 Âu Cơ, P. Tân Sơn Nhì, Q. Tân Phú) với số tiền 200 triệu đồng, thời hạn vay 10 ngày, lãi suất 18 % tháng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, Trung đã trả tiền lãi cho ông Trung được 6 tháng, với số tiền 216 triệu đồng. Ngày 7/4/2008, Nguyễn Thành Trung ký giấy vay tiếp của ông Trung 01tỷ đồng, thời hạn vay 10 ngày, lãi suất 18 % tháng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh. Đến ngày 22/5/2008, Nguyễn Thành Trung báo cho ông Trung đến nhà số 73 Bàu Cát để trả tiền, khi đến nơi Trung báo cho biết là Trung không còn khả năng chi trả, lúc này ông Võ Thành Trung mới biết hai bộ hồ sơ nhà số 73 Bàu Cát và số 842 Trường Chinh do Trung thế chấp để vay tiền là hồ sơ giả nên làm đơn tố cáo Trung tại Công an phường 14, quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thàng Trung khai tháng 4/2007, vay của ông Trung 500 triệu đồng, đến tháng 8/2007 Trung đã trả cho ông Trung 300 triệu đồng vốn và tiền lãi 216 triệu đồng. Số tiền vốn còn lại 200 triệu đồng Trung trả lãi đến tháng 4/2008 là 216 triệu đồng nhưng không có tài liệu để chứng minh. Số tiền vay tiếp 01 tỷ đồng để trả tiền lãi cho những người do Trung vay trước đó. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm hai bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát và số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho ông Võ Thành Trung tưởng giả là thật, cùng thủ đoạn vay tiền trả lãi suất cao, chiếm đoạt 1,2 tỷ đồng của ông Võ Thành Trung (BL: 544 -551, 1158-1366, 1517-1577).
2. Ngày 16/12/2007, Nguyễn Thành Trung vay của chị Hoàng Thị Minh (chỗ ở: 267 Hoàng Hoa Thám, P.13, Q.Tân Bình), với số tiền 3 tỷ đồng, lãi suất 3 % tháng, tài sản thế chấp là hai bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát và số 462 Cộng Hoà, với thủ đoạn để tạo thêm lòng tin, Trung ký hai hợp đồng mua bán hai căn nhà trên cho chị Minh và trả lãi cho chị Minh được 300 triệu đồng. Đến ngày 22/5/2008, Trung báo cho chị Minh đến nhà số 73 Bàu Cát để trả tiền, khi đến nơi Trung báo không còn khả năng chi trả nên chị Minh phát hiện hai bộ hồ sơ nhà số 73 Bàu Cát và số 462 Cộng Hoà do Trung thế chấp để vay tiền và ký hợp đồng bán nhà là giả nên làm đơn tố cáo Trung tại Công an phường 14, quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thành Trung khai ngày 16/10/2007, vay của chị Minh 1,5 tỷ đồng, lãi suất 10 % tháng, thế chấp bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, Trung trả lãi được 2 tháng, với số tiền 300 triệu đồng. Đến ngày 16/12/2007, Trung vay tiếp của chị Minh 1,5 tỷ đồng, lãi suất 10 % tháng, thế chấp bộ hồ sơ giả nhà số 462 Trường Chinh nên chị Minh viết và cùng Trung ký lại hợp đồng mua bán căn nhà số 73 Bàu Cát và số 462 Cộng Hoà vào ngày 16/12/2007, Trung khai đã trả lãi cho chị Minh cả hai đợt được 1,8 tỷ đồng, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm hai bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát và số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho chị Hoàng Thị Minh tưởng giả là thật, cùng thủ đoạn vay tiền trả lãi suất cao, chiếm đoạt 3 tỷ đồng của chị Minh (BL: 564-577, 1158-1366).
3. Ngày 14/01/2008, Nguyễn Thành Trung vay của bà Nguyễn Thị Kim Nương (ngụ: 16D Lê Hồng Phong, P.12, Q. 10) một tỷ đồng, với hình thức ký hợp đồng nhận tiền đặt cọc bán căn nhà số 462 Cộng Hoà với ông Đinh Lương Thành (chồng bà Nương), Trung thế chấp cho bà Nương bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà để làm tin. Ngày 11/4/2008, Trung ký giấy nhận tiếp của bà Nương 600 triệu đồng, Trung trả lãi cho bà Nương được 190 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho chị Nương đến nhà số 73 Bàu Cát để trả tiền, khi đến nơi Trung báo không còn khả năng chi trả nên chị Nương phát hiện bộ hồ sơ nhà số 462 Cộng Hoà do Trung thế chấp để vay tiền và ký hợp đồng nhận cọc mua bán nhà là giả nên làm đơn tố cáo Trung tại Công an phường 14, quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thàng Trung khai nhận vay của chị Nương 1,6 tỷ đồng, trả lãi được 486 triệu đồng và trả lãi cho một số người do Trung vay trước đó nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho chị Nương tưởng giả là thật, cùng thủ đoạn vay tiền trả lãi suất cao, chiếm đoạt 1,6 tỷ đồng của chị Nương (BL: 552- 563, 1367-1516).
4. Ngày 03/2/2008, Nguyễn Thành Trung cùng Nguyễn Thị Tuyết Hương (vợ) ký hợp đồng đặt cọc mua bán chuyển nhượng nhà và đất đối với căn nhà số 462 Cộng Hoà với ông Ngô Quang Đức (ngụ: 202/30 Nguyễn Tiểu La, P. 8, Q. 10), với giá 2,5 tỷ đồng, ngay sau khi ký hợp đồng ông Đức giao cho Trung trực tiếp nhận tiền đặt cọc 900 triệu đồng, số tiền còn lại sau 30 ngày làm thủ tục sang tên cho bên mua sẽ thanh toán hết và Trung giao cho ông Đức bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà. Ngày 11/3/2008, Trung đề nghị và được ông Đức đồng ý đưa thêm 400 triệu đồng tiền cọc để Trung đi công tác và hẹn sau 7 ngày ra công chứng sang tên nhà cho ông Đức. Sau nhiều lần thất hẹn, ông Đức đến phòng công chứng để xác định hồ sơ căn nhà 462 Cộng Hoà thì phát hiện nghi là hồ sơ giả nên đến gặp Trung để đòi lại tiền, ngày 29/4/2008 Trung trả được 350 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho ông Đức đến nhà số 73 Bàu Cát để trả tiền, khi đến nơi Trung báo không còn khả năng chi trả nên ông Đức làm đơn tố cáo tại Công an phường 14, quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thàng Trung khai nhận vay của ông Đức 1,3 tỷ đồng, lãi suất 15 % tháng, đã trả 350 triệu đồng vốn và 525 triệu đồng lãi cho ông Đức, còn việc ký hợp đồng đặt cọc bán nhà 462 Cộng Hoà có chữ ký của Tuyết Hương là theo yêu cầu của ông Đức, nhưng lời khai của Trung không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho ông Đức tưởng giả là thật, chiếm đoạt 950 triệu đồng của ông Đức (BL: 578-591, 1367-1516).
5. Ngày 12/3/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng với ông Lê Hoàng Khanh –Giám đốc Cty TNHH TM & Vận tải Lê Khanh M.C để thuê xe ô tô TOYOTA Camry 2.4, biển số 52Y-6566 (xe do ông Lê Hoàng Khanh thuê khoán lại của ông Trần Văn Đạt-ngụ: 356 An Dương Vương, P. 4, Q. 5), với giá 1.150 USD tháng, thời hạn thuê 2 tháng. Khi hết thời hạn thuê, Trung không trả xe cho ông Khanh mà nhờ Lâm Quốc Cường làm giả giấy đăng ký xe do Trung đứng tên chủ sở hữu. Đến ngày 14/5/2008 Trung thế chấp xe ô tô biển số 52Y-6566 cùng giấy đăng ký xe giả do Trung đứng tên cho bà Phạm Thị Mỹ Hạnh-Giám đốc Cty THNHH-XNK Hưng Phú Thịnh, địa chỉ số 59-61 Trương Định, P. Bến Thành, Q.I) để vay 30.000 USD, lãi suất 1 % ngày, thời hạn vay từ ngày 14/5/2008 đến ngày 20/5/2008. Đến hạn Trung không trả vốn và lãi nên chị Hạnh làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức làm giả giấy đăng ký xe ô tô do Trung đứng tên chủ sở hữu làm cho chị Hạnh tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Hạnh 30.000USD x 16.165đ = 484.950.000đ (BL: 515-543, 385-388; 1653).
6. Ngày 29/3/2008, Nguyễn Thành Trung vay của bà Nguyễn Thị Cúc (chỗ ở: 68/15 Đào Duy Anh, P.9, Q. Phú Nhuận) 1 tỷ đồng, lãi suất 5 % tháng, thời hạn vay 1 tháng (thoả thuận miệng), để tạo thêm lòng tin Trung cùng Nguyễn Thị Tuyết Hương (vợ) ký biên bản đặt cọc (V/v đảm bảo việc giao kết hợp đồng mua bán nhà ở) số 462 Cộng Hoà với chị Nguyễn Thị Hồng Vân (ngụ: 16/2/3 Đặng Văn Ngữ, P. 10, Q. Phú Nhuận – là con bà Cúc), với giá 4 tỷ đồng, sau khi ký biên bản đặt cọc chị Vân giao 1 tỷ đồng cho bà Nguyễn Thị Cúc để bà Cúc giao lại cho Trung, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà. Đến hạn trả tiền bà Cúc gặp Trung để nhận lại tiền vốn và lãi nhưng Trung hẹn mãi đến ngày 8/5/2008 bà Cúc buộc Trung viết giấy cam kết đến ngày 8/6/2008 trả 1 tỷ đồng nhận cọc bán nhà trước đây cho bà Cúc. Ngày 22/5/2008, biết Trung bị bắt nên ngày 23/5/2008, bà Cúc tố cáo và nộp bộ hồ sơ giả nhà 462 Cộng Hoà cho Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra Trung khai nhận vay của Bà Cúc 1 tỷ đồng vào tháng 10/2007, lãi suất 15 % tháng, do bà Cúc phát hiện bộ hồ sơ nhà 462 Cộng Hoà là giả nên bà Cúc yêu cầu Trung viết biên bản đặt cọc bán nhà 462 Cộng Hoà, Trung trả lãi cho bà Cúc được 720 triệu đồng, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho bà Nguyễn Thị Cúc tưởng giả là thật, chiếm đoạt 1 tỷ đồng của bà Cúc (BL: 592-606, 1367-1516).
7. Nguyễn Thành Trung và anh Dương Minh Thiện (chỗ ở: 80/2B8/1 Tân Hoà Đông, P.14, Q.6) có mối quan hệ quen biết trước đây trong việc cho Trung vay mượn tiền nhiều lần trả vốn và lãi suất đầy đủ. Tháng 3/2008, Trung vay của anh Thiện 800 trăm triệu đồng, với lãi suất 15 % tháng, thời hạn vay 10 ngày. Ngày 24/4/2008, Trung vay tiếp của anh Thiện 200 triệu đồng, để tạo thêm lòng tin Trung ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà số 842 Trường Chinh với anh Thiện, giá 1,6 tỷ đồng, đặt cọc trước 1 tỷ đồng, Trung giao bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh cho anh Thiện giữ. Trung đã trả lãi cho anh Thiện được 123 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho Thiện đến nhà 73 Bàu Cát để trả tiền, khi đến nơi Trung báo không còn khả năng chi trả nên anh Thiện tố cáo Trung và nộp hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh cho Công an Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho anh Dương Minh Thiện tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Thiện 1 tỷ đồng (BL: 607-612, 1517-1577).
8. Ngày 30/01/2008, Nguyễn Thành Trung tự viết, ký hợp đồng thế chấp bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà cho ông Tô Văn Út (ngụ: số 5, Quốc lộ 55, TT.Phước Hữu, H.Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu) để vay 1,5 tỷ đồng, lãi suất 7 % tháng, thời hạn 30 ngày. Đến hạn Trung chỉ trả lãi cho ông Út được 105 triệu đồng, còn lại tiền vốn 1,5 tỷ đồng Trung lẫn tránh không trả. Ngày 22/5/2008, ông Út hay tin Trung bị Công an quận Tân Bình bắt nên làm đơn tố cáo Trung tại Cơ quan điều tra Công an TP.Hồ Chí Minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho anh Tô Văn Út tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Út 1,5 tỷ đồng (BL: 614-618, 1367-1516).
9. Do các mối quan hệ quen biết, Nguyễn Thành Trung hỏi vay 1,6 tỷ đồng, lãi suất 2,5% tháng, thời hạn vay 3 tháng, của chị Đỗ Tú Phương (ngụ:109/38 Nguyễn Thiện Thuật, P.2, Q.3), tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh, được chị Phương đồng ý cho Trung vay với điều kiện Trung phải cùng chị Phương mang bộ hồ sơ nhà 842 Trường Chinh ra công chứng. Do hồ sơ nhà giả ra công chứng sẽ bị phát hiện nên Trung đồng ý với chị Phương ra công chứng làm hợp đồng tín chấp Trung vay của chị Phương 1,6 tỷ đồng, còn đối với bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh, Trung sẽ làm hợp đồng với hình thức đặt cọc mua bán nhà số 842 Trường Chinh cho chị Phương và giao cho chị Phương giữ làm tài sản thế chấp. Do bộ hồ sơ nhà là bản chính và Trung đứng tên chủ sở hữu nên chị Phương đồng ý với đề nghị của Trung. Đến 14h ngày 23/2/2008, Trung cùng với chị Phương đến phòng công chứng số 2, tại quận 5 ký hợp đồng với nội dung chị Phương cho Trung vay 1,6 tỷ đồng, lãi suất 1,5 % tháng, thời hạn 3 tháng, được công chứng viên Phan Thanh Vân, phòng công chứng số 2, TP.Hồ Chí Minh công chứng . Trung cùng chị Phương về nhà số 73 Bàu Cát, Trung cùng vợ là Tuyết Hương ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà số 842 Trường Chinh cho chị Phương, với giá 3 tỷ đồng, ngay sau khi ký hợp đồng chị Phương đặt cọc cho Trung 1,6 tỷ đồng, chị Phương nhận các giấy tờ chủ quyền bản chính của căn nhà. Số tiền còn lại 1,4 tỷ đồng thanh toán hết ngay sau khi Trung hoàn thành thủ tục tại phòng công chứng mua bán sang tên nhà cho chị Phương. Trung đã trả lãi cho chị Phương được 3 tháng, với số tiền 120 triệu đồng, sau đó biết tin Trung bị bắt nên đã làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho chị Đỗ Tú Phương tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Phương 1,6 tỷ đồng (BL: 619-627, 1517-1577).
10. Thông qua Phạm Ngọc Lượng, Nguyễn Thành Trung với hình thức vay tiền trả lãi suất cao (10 %) và để tạo thêm lòng tin của người cho vay bằng thủ đoạn ký biên nhận đặt cọc tiền mua bán nhà, thế chấp xe ô tô nên ngày 10/01/2008, Trung vay của ông An Xuân Bình (ngụ: I4A Hương Giang, cư xá Bắc Hải, P.15, Q.10), với số tiền 700 triệu đồng, lãi suất 10 % tháng, tài sản thế chấp là giấy đăng ký giả xe ô tô biển số 52 Z-4094. Trung trả lãi cho ông Bình được 21 triệu đồng. Ngày 11/3/2008, Trung tiếp tục ký biên nhận đặt cọc (V/v mua bán nhà ở), với giá 3,6 tỷ đồng, Trung nhận tiền đặt cọc của ông Bình 1,2 tỷ đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát, Trung trả lãi cho ông Bình được 170 triệu đồng. Ngày 28/3/2008, Trung ký tiếp biên nhận đặt cọc (V/v mua bán nhà ở), với giá 4,2 tỷ đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh, Trung nhận tiền đặt cọc của ông Bình 1,6 tỷ đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh. Trung trả lãi cho ông Bình được 210 triệu đồng. Ngày 3/6/2008, ông An Xuân Bình làm đơn tố cáo Trung tại Cơ quan điều tra và báo các giấy tờ nhà, xe do Trung giao để thế chấp đã bị mất trộm vào ngày 16/8/2009. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho ông Bình tưởng giả là thật, chiếm đoạt của ông An Xuân Bình 3,5 tỷ đồng (BL: 628-664, 1158-1366, 1517-1577).
11. Ngày 25/2/2008, thông qua bà Lê Thị Bích Hoa (ngụ: 136/5D Lê Văn Thọ, P.11, Q. Gò Vấp) giới thiệu, Nguyễn Thành Trung vay của ông Nguyễn Hữu Văn (ngụ: 57/3A/3 Lê Văn Thọ, P.11, Q. Gò Vấp), với số tiền 1 tỷ đồng, lãi suất 14 % tháng, thời hạn 30 ngày, bằng thủ đoạn Trung ký hợp đồng bán căn nhà số 462 Cộng Hoà cho ông Văn, với giá 3,5 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng ông Văn giao tiền đặt cọc trước cho Trung 1 tỷ đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà. Ngày 26/2/2008, Trung vay tiếp của ông Văn và trực tiếp viết ký nhận 800 triệu đồng vào mặt sau của bản hợp đồng mua bán nhà đất giữa Trung với ông Văn ngày 25/2/2008, Trung đã trả lãi cho ông Văn được 214 triệu đồng. Ngày 25/3/2008, Trung không còn khả năng chi trả nên ông Văn buộc Trung ký giấy xác nhận mượn của ông Văn số tiền 2 tỷ đồng (trong đó có 200 triệu đồng tiền lãi) . Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho ông Văn tưởng giả là thật, chiếm đoạt của ông Nguyễn Hữu Văn 1,8 tỷ đồng (BL: 665-673, 1367-1516).
12. Ngày 17/3/2008, thông qua giới thiệu của bà Lê Thị Bích Hoa, Nguyễn Thành Trung vay của bà Phạm Thị Đồng (ngụ: 64 Nguyễn Huệ, P. Đức Nghĩa, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận), với số tiền 1,5 tỷ đồng, lãi suất 10 % tháng, Trung thế chấp cho bà Đồng bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát. Ngày 17/4/2008, Trung vay tiếp của bà Đồng 1 tỷ đồng, lãi suất 5% tháng, bằng thủ đoạn Trung ký hợp đồng bán căn nhà số 462 Cộng Hoà cho bà Đồng, với giá 5 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng bà Đồng đặt cọc trước 1 tỷ đồng và Trung giao bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà cho bà Đồng giữ làm tài sản thế chấp. Trung đã trả lãi cho bà Đồng được 270 triệu đồng (Trung khai là 320 triệu đồng). Đến ngày 13/5/2008, do phát hiện Trung nợ nhiều người nên bà Hoa, bà Đồng cùng Trung đã đến phòng công chứng số 5 ký lại hợp đồng Trung vay 5 tỷ đồng, trong đó Trung vay của bà Đồng 2,5 tỷ đồng, của bà Hoa 2 tỷ đồng và của bà Phạm Thị Thắm 500 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho bà Hoa và bà Đồng biết hồ sơ nhà thế chấp là hồ sơ giả và không còn khả năng chi trả nên đã làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho bà Phạm Thị Đồng và bà Lê Thị Bích Hoa tưởng giả là thật, chiếm đoạt của bà Đồng số tiền 2,5 tỷ đồng và của bà Hoa 2 tỷ đồng. Riêng 500 trăm triệu đồng Trung vay của bà Thắm là quan hệ dân sự (BL: 674-689, 1158-1577)
13. Ngày 8/4/2008, thông qua tên Trần Thanh An, Nguyễn Thành Trung vay của chị Phạm Vũ Anh Thư (ngụ: 155 Điện Biên Phủ, P.15, Q.Bình Thạnh), với số tiền 700 triệu đồng, lãi suất 9 % tháng, thời hạn vay 30 ngày bằng thủ đoạn Trung ký hợp đồng mua bán căn nhà số 73 Bàu Cát cho chị Thư, với giá 2 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng chị Thư giao cho Trung tiền cọc 700 triệu đồng và Trung giao cho chị Thư giữ bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát làm tài sản thế chấp, Trung đã trả lãi cho chị Thư được 21 triệu đồng, đến ngày 6/5/2008 phát hiện hồ sơ nhà 73 Bàu Cát là giả nên chị Thư đòi lại tiền nhiều lần, được Trung cam kết nhưng không trả. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm các bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, để tạo lòng tin làm cho bà Phạm Vũ Anh Thư tưởng giả là thật, chiếm đoạt của bà Thư số tiền 700 triệu đồng (BL: 690-716, 1158-1577).
14. Ngày 17/4/2008, thông qua bà Phạm Vũ Anh Thư, Nguyễn Thành Trung vay của anh Ngô Ngọc Trình (chỗ ở: 71/56/10 Điện Biên Phủ, P.15, Q.Bình Thạnh), với số tiền 500 triệu đồng, lãi suất 3 % tháng, thời hạn 30 ngày, bằng thủ đoạn Trung ký hợp đồng bán nhà số 842 Trường Chinh cho anh Trình, với giá 1 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng anh Trình giao cho Trung tiền cọc 500 triệu đồng và Trung giao cho anh Trình giữ bộ hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh làm tài sản thế chấp, Trung đã trả lãi cho anh Trình được 15 triệu đồng. Ngày 6/5/2008, anh Trình phát hiện bộ hồ sơ căn nhà số 842 Trường Chinh là giả nên đòi lại tiền, được Trung trả 320 triệu đồng, hiện còn chiếm đoạt 180 triệu đồng, Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho anh Ngô Ngọc Trình tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Trình số tiền 180 triệu đồng (BL: 690-716, 1158-1577).
15. Ngày 25/4/2008, Nguyễn Thành Trung ký biên nhận vay của anh Phạm Ngọc Lượng (ngụ: 35 Nguyễn Minh Hoàng, P. 12, Q. Tân Bình), với số tiền 500 triệu đồng, lãi suất 15 % tháng, thời hạn vay 15 ngày, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà. Ngày 02/5/2008, Trung vay tiếp của anh Lượng 300 triệu đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 676 Trường Chinh. Đến hạn trả vốn và lãi cho anh Lượng, do không có tiền nên Trung vay tiếp của anh Lượng 70 triệu đồng và ký biên nhận vay số tiền 139 triệu đồng (trong 139 triệu đồng có 69 triệu đồng tiền lãi). Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà và căn nhà số 676 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho anh Phạm Ngọc Lượng tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Lượng số tiền 870 triệu đồng (BL: 717-723, 1578-1604).
16. Ngày 23/4/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng (viết tay) vay của anh Trần Bá Nam (chổ ở: 270/32 Hoàng Hoa Thám, P. 5, Q. Bình Thạnh), với số tiền 1 tỷ đồng, lãi suất 6 % tháng (Trung khai 15 % tháng), thời hạn vay 15 ngày, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà, đến hạn Trung đã trả cho anh Nam được 50 triệu đồng tiền lãi (Trung khai đã trả lãi cho anh Nam được 68 triệu đồng). Ngày 20/5/2008, Trung viết giấy cam kết sau 3 ngày nếu không trả được vốn cho anh Nam thì Trung sẻ bán cổ phần của Trung cho anh Nam theo giá chuyển nhượng nội bộ tương ứng với số tiền Trung nợ anh Nam, ngày 22/5/2008, Trung báo cho anh Nam đến nhà của Trung số 73 Bàu Cát, Trung tuyên bố không còn khả năng chi trả và hồ sơ nhà số 462 Cộng Hoà thế chấp cho anh Nam là hồ sơ giả nên anh Nam làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho anh Trần Bá Nam tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Nam số tiền 1 tỷ đồng (BL: 724-744, 1367-1516).
17. Ngày 29/4/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng giao kết nhận tiền (V/v nhận tiền đặt cọc mua bán nhà đất) với chị Trần Thị Bích Thuỷ (ngụ: 76/10 C Bà Hom, P. 13, Q. 6), với giá 2,5 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng chị Thuỷ giao cho Trung 1,5 tỷ đồng tiền đặt cọc, số tiền còn lại 1 tỷ đồng sau 10 ngày ra công chứng sang tên sẽ thanh toán hết và Trung giao bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát cho chị Thuỷ giữ. Qúa hạn nhưng không thấy Trung hẹn ra công chứng làm thủ tục sang tên nhà nên ngày 15/5/2008 chị Thuỷ đến cty gặp Trung tại số 462 Cộng Hoà, thấy nhiều người đến đòi nợ Trung và cũng mang theo bộ hồ sơ nhà số 73 Bàu Cát nên chị Thuỷ gặp Trung đòi lại 1,5 tỷ đồng, được Trung viết cam kết trả vào ngày 28/5/2008. Ngày 22/5/2008, Trung hẹn chị Thuỷ đến 73 Bàu Cát và tuyên bố không còn khả năng chi trả, hồ sơ nhà thế chấp là giả nên chị Thuỷ làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai vay của chị Thuỷ 1,5 tỷ đồng, lãi suất 18 % tháng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát cho chị Thuỷ giữ và đã trả được 60 triệu đồng, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát để tạo lòng tin làm cho chị Thuỷ tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Thuỷ số tiền 1,5 tỷ đồng (BL: 736-749, 1158-1366).
18. Ngày 29/4/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà số 842 Trường Chinh, với chị Hồ Thị Chuyên (ngụ: 1/173 A5 Nguyễn Văn Qúa, P. Đông Hưng Thuận, Q. 12), với giá 1,2 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng chị Chuyên giao tiền đặt cọc trước cho Trung 1.150.000.000đ, còn lại 50 triệu đồng sau 30 ngày ra công chứng làm thủ tục sang tên sẽ trả hết, Trung giao bộ hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh cho chị Chuyên giữ. Ngày 22/5/2008, Trung hẹn chị Chuyên đến nhà số 73 Bàu Cát và tuyên bố không còn khả năng chi trả, hồ sơ nhà thế chấp là giả nên chị Chuyên làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai vay của chị Chuyên 1 tỷ đồng vào tháng 2/2008, lãi suất 15 % tháng, trả lãi được 150 triệu đồng. Đến ngày 29/4/2008, do không có tiền trả nên chị Chuyên viết hợp đồng đặt cọc mua bán nhà và cộng thêm tiền lãi 150 triệu vào thành 1.150.000.000đ đưa Trung ký, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho chị Chuyên tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Chuyên số tiền 1.150.000.000đ (BL: 750-759, 1517-1577).
19. Ngày 10/5/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng vay tiền thế chấp tài sản với anh Trần Quang Hải (ngụ: 184/15 Huỳnh Văn Nghệ, P. 15, Q. Tân Bình), vay 200 triệu đồng, lãi suất 5 % tháng, thời hạn vay 30 ngày, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 676 Trường Chinh. Đến ngày 20/5/2008, anh Hải phát hiện hồ sơ thế chấp căn nhà số 676 Trường Chinh do Trung giao để thế chấp là giả nên anh Hải đòi lại tiền. Ngày 22/5/2008, Trung hẹn anh Hải đến nhà số 73 Bàu Cát và tuyên bố không còn khả năng chi trả, hồ sơ nhà thế chấp là giả nên anh Hải làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai chỉ vay của anh Hải 130 triệu đồng, lãi suất 15 % tháng , do không có tiền trả 70 triệu đồng lãi nên Hải yêu cầu Trung ký hợp đồng vay 200 triệu đồng và thế chấp tài sản là bộ hồ sơ giả căn nhà số 676 Trường Chinh, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 676 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho anh Hải tưởng giả là thật, chiếm đoạt của anh Hải số tiền 200 triệu đồng (BL: 760-769, 1578-1604).
20. Ngày 17/5/2008, thông qua chị Trần Thị Tuyết Mai (ngụ: 119/1 đường TX 22, KP1,P.Thạnh Xuân, Q.12), Nguyễn Thành Trung thế chấp hồ sơ giả căn nhà số 676 Trường Chinh cho chị Trần Thị Tố Tâm (chỗ ở: 199 Tân Hương, P. Tân Quý, Q. Tân Phú-là chị em bạn dâu bên chồng với Mai), để vay 300 triệu đồng, cam kết sẽ trả vào ngày 18/5/2008, Trung giao cho chị Tâm giữ bộ hồ sơ giả căn nhà số 676 Trường Chinh để làm tin. Ngày 22/5/2008, Trung hẹn chị Tâm đến nhà số 676 Trường Chinh và tuyên bố không còn khả năng chi trả, hồ sơ nhà thế chấp là giả nên chị Tâm làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai vay của chị Tâm 300 triệu đồng, Trung sử dụng vào việc trả lãi cho chị Mai 140 triệu đồng, trả lãi cho chị Tâm 40 triệu đồng, còn 120 triệu đồng Trung trả cho những người vay trước đó. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 676 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho chị Tâm tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Tâm số tiền 300 triệu đồng (BL: 770-786, 1578-1604).
21. Ngày 27/2/2008, Nguyễn Thành Trung vay 1 tỷ đồng của bà Phạm Thị Ngọc Bích (ngụ: 1105 Lạc Long Quân, P. 11, Q. Tân Bình), lãi suất 5 % tháng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát, bằng thủ đoạn Trung ký giấy nhận cọc mua bán nhà số 73 Bàu Cát cho bà Bích, với giá 3 tỷ đồng, sau khi ký giấy nhận cọc mua bán nhà, bà Bích giao cho Trung 1 tỷ đồng tiền cọc. Số tiền vay của bà Bích, Trung khai trả lãi cho bà Bích được 100 triệu đồng và trả lãi cho bà Lê Thị Bích Hoa. Ngày 22/5/2008, Trung hẹn bà Bích đến nhà số 73 Bàu Cát và tuyên bố không còn khả năng chi trả, hồ sơ thế chấp nhà số 73 Bàu Cát là giả nên ngày 28/5/2008, bà Bích làm đơn tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát để tạo lòng tin làm cho chị Bích tưởng giả là thật, chiếm đoạt của chị Bích số tiền 1 tỷ đồng (BL: 787-794, 1158-1366).
22. Ngày 6/12/2007, Nguyễn Thành Trung vay của ông Nguyễn Văn Hiếu (ngụ: 211/62 Tân Sơn Nhì, P.Tân Sơn Nhì, Q. Tân Phú), với số tiền 1 tỷ đồng, lãi suất 4 % tháng, thời hạn vay 3 tháng, bằng thủ đoạn Trung ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà số 462 Cộng Hoà, với giá 2 tỷ đồng cho ông Hiếu, sau khi ký hợp ông Hiếu giao cho Trung 1 tỷ đồng tiền đặt cọc mua nhà, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà. Ngày 8/12/2007, Trung ký hợp đồng vay tiếp của ông Hiếu với số tiền 600 triệu đồng, lãi suất 15 % tháng, thời hạn vay 2 tháng. Ngày 10/12/2007, Trung ký hợp đồng vay tiếp của ông Hiếu với số tiền 1 tỷ đồng, lãi suất 0,4 % tháng, thời hạn vay 2 tháng, được phòng công chứng số 7- TP.Hồ Chí Minh công chứng. Trung đã trả lãi cho ông Hiếu được 110 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho ông Hiếu đến nhà số 73 Bàu Cát, Trung thông báo không còn khả năng chi trả, bộ hồ sơ nhà số 462 Cộng Hoà thế chấp cho ông Hiếu là bộ hồ sơ giả nên ông Hiếu tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai ngày 6/12/2007 vay của ông Hiếu 1 tỷ đồng, lãi suất 18 % tháng, các tháng tiếp theo lãi suất 10 % tháng. Đối với hợp đồng ngày 10/12/2007 vay 1 tỷ đồng là số tiền vay 1 tỷ đồng của hợp đồng ký ngày 6/12/2007 nên tổng số tiền Trung vay của ông Hiếu là 1,6 tỷ đồng, lãi suất Trung trả đến tháng 4/2008, được 512 triệu đồng, nhưng lời khai của Trung không có tài liệu chứng cứ để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho chị ông Nguyễn Văn Hiếu tưởng giả là thật, chiếm đoạt của ông Hiếu số tiền 2,6 tỷ đồng (BL: 795-807, 1367-1516).
23. Ngày 11/11/2007, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở số 73 Bàu Cát cho ông Trần Oanh Vinh (ngụ: 26/11 Trương Định, P. Bến Thành, Q. I), với giá 3 tỷ đồng, sau khi ký hợp đồng ông Vinh giao tiền đặt cọc 2 tỷ đồng cho Trung (trong đó của ông Vinh 1,5 tỷ đồng, của bạn ông Vinh tên Trung 500 triệu đồng), số tiền còn lại 1 tỷ đồng, trong vòng 60 ngày Trung phải đến phòng công chứng ký hợp đồng mua bán và giao nhà cho ông Vinh thì ông Vinh trả hết 1 tỷ đồng còn lại cho Trung. Khi hết thời hạn 60 ngày, ông Vinh liên lạc với Trung nhiều lần để đi công chứng ký hợp đồng bán nhà, nhưng đều bị Trung nói bận chưa đi được. Ngày 2/5/2008, bà Phạm Thị Sương (ngụ: 28/12 cư xá Lữ Gia, P. 15, Q. 11- vợ ông Trung) cùng bà Bùi Thị Kim Nguyệt (chổ ở: 39 đường số 20, P. 11, Q. 6) và ông Vinh đến nhà số 73 Bàu Cát, được Trung viết cam kết xác nhận có nhận 2 tỷ đồng tiền đặt cọc bán căn nhà số 73 Bàu Cát cho ông Vinh, Trung xin gia hạn đến ngày 2/8/2008 sẽ ra công chứng ký hợp đồng bán nhà, đồng thời Trung viết đã trả cho ông Vinh 500 triệu đồng, thực chất Trung ký lại hợp đồng vay tiền của bà Sương 50 triệu đồng và vay của bà Nguyệt 450 triệu đồng. Đến ngày 22/5/2008, Trung báo cho ông Vinh đến nhà số 73 Bàu Cát, báo cho ông Vinh biết Trung không còn khả năng chi trả, hồ sơ căn nhà số 73 Bàu Cát là hồ sơ giả nên ông Vinh tố cáo Trung tại Công an quận Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai tháng 9/2007 có vay của người tên Trung 1,7 tỷ đồng, lãi suất 15 % tháng. Ngày 11/11/2007, ông Trung dẫn ông Vinh đến nói số tiền 1,7 tỷ đồng là của ông Vinh nên yêu cầu Trung ký lại hợp đồng đặt cọc mua bán căn nhà số 73 Bàu Cát với ông Vinh, cộng với 300 triệu đồng tiền lãi Trung chưa trả thành 2 tỷ đồng, nhưng lời khai của Trung không có tài liệu chứng cứ để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát để tạo lòng tin làm cho ông Trần Oanh Vinh, bà Bùi Thị Kim Nguyệt tưởng giả là thật, chiếm đoạt của ông Vinh số tiền 1,5 tỷ đồng và của bà Nguyệt 450.000.000đ. Riêng đối với bà Phạm Thị Sương do không có đơn tố cáo nên không có cơ sở để điều tra xử lý (BL: 808-822, 1158-1366).
24. Ngày 6/8/2007, Nguyễn Thành Trung viết giấy vay của bà Nguyễn Thị Hoa (ngụ: 54 đường D9, P.Tây Thạnh, Q.Tân Phú), với số tiền 250.000.000đ, lãi suất 2,5 % tháng, thời hạn 1 tháng. Ngày 01/11/2007, Trung viết giấy vay của bà Hoa 200.000.000đ, lãi suất 3 % tháng, thời hạn 1 tháng và ngày 19/4/2008, Trung vay tiếp của bà Hoa 300 triệu đồng, thời hạn 12 ngày trả. Tài sản thế chấp là hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát. Trung đã trả lãi cho bà Hoa được 80.000.000đ, Trung viết giấy cam kết nhiều lần nhưng không trả. Đến ngày 22/5/2008, Trung gọi bà Hoa đến 73 Bàu Cát để trả tiền, Trung cho biết không còn khả năng trả nợ và hồ sơ nhà số 73 Bàu Cát do Trung thế chấp là hồ sơ giả nên ngày 23/5/2008, bà Hoa làm đơn tố cáo Trung. Tại Cơ quan điều tra Trung khai vay của bà Hoa 750.000.000đ, lãi suất 9 % tháng, đã trả lãi 229.000.000đ và trả vốn 300.000.000đ, nhưng lời khai của Trung không có tài liệu chứng cứ để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát để tạo lòng tin làm cho bà Hoa tưởng giả là thật, để chiếm đoạt của bà Hoa 750 triệu đồng.
25. Tháng 9 và tháng 10/2007, Nguyễn Thành Trung vay của anh Hoàng Thành Bảo (ngụ 51/104/25 Cao Thắng, P.3, Q.3), với số tiền 1,4 tỷ đồng, lãi suất 10 % tháng. Tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà 73 Bàu Cát. Ngày 20/2/2008, Trung vay tiếp của anh Bảo với số tiền 1,5 tỷ đồng để trả lương tháng thứ 13 cho nhân viên của Cty, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 842 Trường Chinh. Tổng số tiền Trung vay của anh Bảo là 2.900.000.000đ, Trung trả lãi đến tháng 3/2008 được 810.000.000đ. Đến tháng 4/2008, do không có tiền trả nên ngày 15 và ngày 20/4/2008 Trung ký hai hợp đồng vay tiền và hứa bán căn nhà số 73 Bàu Cát và số 842 Trường Chinh cho anh Bảo,với giá mỗi căn 3 tỷ đồng. Trung đã nhận trước 1.650.000.000đ đối với căn nhà số 842 Trường Chinh (trong đó số tiền gốc Trung đã vay là 1,5 tỷ đồng, tiền lãi chưa trả 150.000.000đ) và 1,561.tỷ đồng đối với căn nhà số 73 Bàu Cát (trong đó số tiền gốc Trung đã vay là 1,4 tỷ đồng, tiền lãi chưa trả 161.000.000đ). Đến ngày 22/5/2008 Trung mời anh Bảo đến 73 Bàu Cát để trả tiền, Trung cho anh Bảo biết không còn khả năng trả nợ và bộ hồ sơ nhà 73 Bàu Cát, 842 Trường Chinh là giả nên ngày 26/5/2008 anh Bảo làm đơn tố cáo Trung tại cơ quan điều tra. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, 842 Trường Chinh để tạo lòng tin làm cho anh Hoàng Thành Bảo tưởng giả là thật, để chiếm đoạt của anh Bảo 2,9 tỷ đồng (BL:1037-1038, 1040-1070, 1671,1672, 1716-1744, 1778-1781).
26. Ngày 12/6/2007 và ngày 22/2/2008, Nguyễn Thành Trung vay của chị Hoàng Thị Hằng (ngụ 42/5 Huỳnh Đình Hai, P.24, Q.Bình Thạnh), với số tiền 1,9 tỷ đồng, lải suất 12 % tháng, thời hạn 30 ngày, với hình thức ký hợp đồng đặt cọc mua bán nhà và ký giấy nhận nợ, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát, số 462 Cộng Hoà và giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô biển số 52Z-4094. Trung đã trả lãi cho chị Hằng được 550 triệu đồng. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho chị Hằng đến 73 Bàu Cát, tại đây Trung tuyên bố không còn khả năng trả nợ, hồ sơ thế chấp là hồ sơ giả nên chị Hằng trình báo tại Công an phường 14, Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai đã trả lãi được 1.188.000.000đ, nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát, 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho chị Hoàng Thị Hằng tưởng giả là thật, để chiếm đoạt của chị Hằng 1,9 tỷ đồng. Ngày 13/5/2009, chị Hằng làm đơn bãi nại cho Trung (BL: 841-854, 1664-1665).
27. Ngày 26/4/2008, Nguyễn Thành Trung vay của chị Phạm Thị Thanh Hà, với số tiền 1,5 tỷ đồng bằng hình thức ký hợp đồng nhận tiền cọc bán nhà và đất số 462 Cộng Hoà cho chị Phạm Thị Thanh Hà, với giá 3 tỷ đồng, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho chị Hà đến 73 Bàu Cát, Trung tuyên bố không còn khả năng trả nợ, hồ sơ thế chấp là hồ sơ giả nên chị Hà trình báo tại Công an phường 14, Tân Bình. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai đã trả lãi được 885.000.000đ nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho bà Hà tưởng giả là thật, để chiếm đoạt 1,5 tỷ đồng của bà Hà. Ngày 5/3/2009, chị Phạm Thị Thanh Hà làm đơn bãi nại cho Trung (BL: 855-863, 1664-1665).
28. Ngày 20/4/2008, Nguyễn Thành Trung vay của chị Nguyễn Thị Lý (ngụ 391 Tân Kỳ-Tân Quý, P.Tân Quý, Q.Tân Phú), với số tiền 200.000.000đ, lãi suất 10 % tháng. Tài sản thế chấp là hồ sơ giả căn nhà số 462 Cộng Hoà. Đến đầu tháng 5/2008, chị Lý nghi hồ sơ do Trung thế chấp là giả nên mang đến phòng Công chứng số 4 để kiểm tra thì phát hiện là hồ sơ giả nên chị Lý bỏ hồ sơ tại phòng Công chứng, đến gặp Trung đòi lại tiền đã cho Trung vay. Đến ngày 15/5/2008, Trung viết giấy cam kết trả cho chị Lý 200.000.000đ vào ngày 20/7/2008, khi biết Trung bị bắt chị Lý đến trình báo với cơ quan điều tra. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai nhận vay của chị Lý 200.000.000đ, trả lãi được 80.000.000đ, nhưng lời khai của Trung không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức đã làm bộ hồ sơ giả nhà số 462 Cộng Hoà để tạo lòng tin làm cho chị Lý tưởng giả là thật, để chiếm đoạt 200 triệu đồng của chị Lý (BL: 917-922 ).
29. Tháng 9/2007, Nguyễn Thành Trung vay của anh Phan Từ Dương (ngụ 181/36 đường 3/2, P.11, Q.10), với số tiền 700.000.000đ, lãi suất 0,5 % ngày, tài sản thế chấp là bộ hồ sơ giả căn nhà số 73 Bàu Cát. Đến tháng 10/2007, Trung trả cho anh Dương tiền lãi được 49.000.000đ và tiền vốn 400.000.000đ, còn lại 300.000.000đ. Ngày 5/12/2007, Trung ký hợp đồng mua bán đặt cọc quyền sử dụng nhà và quyền sử dụng đất căn nhà 73 Bàu Cát với anh Dương, đối với số tiền 300.000.000đ Trung trả lãi được 15.000.000đ. Ngày 22/5/2008, Trung báo cho anh Dương đến 73 Bàu Cát, Trung tuyên bố không còn khả năng trả nợ, hồ sơ thế chấp là hồ sơ giả nên anh Dương làm đơn tố cáo Trung. Tại Cơ quan điều tra, Trung khai vay của anh Phan Từ Dương 700.trệu đồng, trả vốn 400 triệu đồng, còn lại 300 triệu đồng Trung trả lãi đến tháng 3/2008 được 225.000.000đ nhưng không có tài liệu để chứng minh. Như vậy, Nguyễn Thành Trung được Lâm Quốc Cường giúp sức làm bộ hồ sơ giả nhà số 73 Bàu Cát để tạo lòng tin làm cho anh Phan Từ Dương tưởng giả là thật, để chiếm đoạt của anh Dương 300.000.000đ (BL: 1072-1080)
30. Ngày 6/10/2006, Nguyễn Thành Trung – Giám đốc đại diện Cty TNHH-DVBV Tây Bình Tây Sơn, địa chỉ số 462 Cộng Hoà, P. 13, Q. Tân Bình, ký hợp đồng tín dụng số: FA 198/06-TBTS với ngân hàng UNITEDOVERSEAS BANK, địa chỉ sô 17 Lê Duẩn, quận I, vay số tiền: 558.192.000đ, lãi suất 1 % tháng của 12 tháng đầu, 1,1 % tháng của 12 tháng tiếp theo, 1,2 % tháng của những tháng còn lại, thời hạn vay từ ngày 9/11/2006 đến ngày 9/10/2009, để mua một xe ô tô TOYOTA CAMRY mới mang biển số 52Z-4094, với giá 930.320.000đ, tài sàn thế chấp là giấy đăng ký xe ô tô số 0032234, biển số 52Z-4094 cấp ngày 06/11/2006. Riêng đối với chiếc xe ô tô, ngân hàng đã làm thủ tục đăng ký cầm cố tài sản tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại TP.Hồ Chí Minh thuộc cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ tư pháp và ngân hàng giao xe ô tô cho Trung quản lý sử dụng.
Trong khi ngân hàng đang giữ giấy đăng ký xe ô tô biển số 52Z-4094 thì Trung nhờ một người tên Thuý (không xác định) làm giả giấy đăng ký xe ô tô biển số 52Z-4094 để thế chấp vay tiền của nhiều người và Trung giữ lại một giấy đăng ký xe ô tô giả để sử dụng. Ngày 16/3/2008, Trung thế chấp xe ô tô biển số 52Z-4094 cùng giấy đăng ký xe ô tô giả cho Cty TNHH Lê Trực, tại số 420 Võ Văn Tần, P. 5, Q. 3, do ông Lê Trung Trực – Giám đốc, để vay 500 triệu đồng, lãi suất 2,27 % tháng, do không có tiền trả để nhận lại xe nên Trung trả 12.750.000đ tiền lãi và xin gia hạn đến ngày 15/5/2008. Do thiếu vốn kinh doanh nên ngày 7/5/2008, ông Lê Trung Trực ký hợp đồng thoả thuận thế chấp xe ô tô cùng giấy đăng ký xe biển số 52Z-4094 cho bà Phạm Thị Như Hoa (ngụ: 424 B Nguyễn Đình Chiểu, P. 4, Q. 3) để vay 500 triệu đồng, lãi suất 2,5 % tháng và đã trả lãi cho bà Hoa đến ngày 7/6/2008 được 196 triệu đồng. Đến ngày 22/5/2008, Nguyễn Thành Trung bị Công an quận Tân Bình bắt giam. Qua điều tra và kết quả giám định đã xác định giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 0032234, biển số 52Z-4094 cấp ngày 06/11/2006, do Nguyễn Thành Trung thế chấp cho ngân hàng UNITEDOVERSEAS BANK là giấy thật nên việc Trung thế chấp giấy đăng ký xe ôtô để vay tiền của ngân hàng là quan hệ giao dịch dân sự. Đối với việc ông Lê Trung Trực ký hợp đồng thế chấp xe ôtô và giấy đăng ký xe biển số 52Z-4049 cho bà Phạm Thị Như Hoa để vay 500 triệu đồng, do ông Trực không biết giấy đăng ký xe ôtô biển số 52Z-4049 do Nguyễn Thành Trung thế chấp là giả nên việc ông Trực thế chấp xe ôtô và giấy đăng ký xe biển số 52Z-4094 cho bà Phạm Thị Như Hoa là quan hệ dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà dân sự. Cơ quan điều tra đã thông báo cho ngân hàng UNITEDOVERSEAS BANK và bà Phạm Thị Như Hoa biết để tiếp tục khởi kiện tại Toà án dân sự. Như vậy, Nguyễn Thành Trung đã làm giả giấy đăng ký xe ôtô mang biển số 52Z-4049 làm cho ông Lê Trung Trực tưởng giả là thật, nhằm chiếm đoạt của ông Trực 500 triệu đồng (BL: 823-840,1120-1157).
Đối với những bị hại đã cho Nguyễn Thành Trung vay tiền được Trung thế chấp bằng bộ hồ sơ nhà và giấy đăng ký xe ô tô giả, gồm: Nguyễn Thị Chinh (ngụ: 1075 B Trần Hưng Đạo, P. 5, Q. 5), Đỗ Xuân Hiệp (ngụ: 6/6 KP 3, đường số 3, P. Tân Kiểng, Q.7), Nguyễn Dũng (ngụ: 65/66 Nguyễn Đình Chiểu, P. 4, Q. Phú Nhuận), Trần Thị Tuyết Mai (ngụ: 119/3 đường TX 22, P. Thạnh Xuân, Q. 12), Trần Thị Tú Liên (ngụ: 5E9, KP4, Trần Não, P. Bình An, Q. 2), Trần Thị Nguyệt Thu (ngụ: 10 A Đông Sơn, P. 7, Q. Tân Bình), Nguyễn Hồng Thắm (ngụ: 14/38 A, Nguyễn Đình Chiểu, P. ĐaKao, Q. I), Nguyễn Thị Xuân Phương (ngụ: 493A/2 CMT8, P. 13, Q. 10), Vương Kiều Trâm (ngụ: 119 Tôn Thất Đạm, P. Bến Nghé, Q. I), Vương Hồng Quân (ngụ: 9X/9 Chu Văn An, P. 12, Q. Bình Thạnh) Cơ quan điều tra mời nhiều lần nhưng không đến làm việc và không cung cấp hồ sơ nhà giả do Nguyễn Thành Trung thế chấp để Cơ quan điều tra trưng cầu giám định nên không đủ cơ sở đưa vào hồ sơ để điều tra xử lý đối với Nguyễn Thành Trung.
Ông Nguyễn Nhan Trọng Tiến (ngụ 462 Cộng Hoà, P. 13, Q.Tân Bình) đã cho Nguyễn Thành Trung vay tiền là quan hệ giao dịch dân sự. Riêng đối với ông Nguyễn Xuân Huệ (ngụ 78 Lý Thường Kiệt, P.8, Q. Tân Bình) đã được Toà án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xét xử theo bản án số 1826/2009/KDTM-ST ngày 24/7/2009. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thông báo cho ông Tiến biết để khởi kiện dân sự (BL: 1686-1692).
Đối với Nguyễn Thị Tuyết Hương (vợ Trung) có ký tên vào hợp đồng mua bán nhà do Trung yêu cầu Hương ký và Nguyễn Thị Mỹ Lệ (chị ruột của Trung) do Trung ghi tên Nguyễn Thị Mỹ Lệ đứng tên chủ sở hữu căn nhà số 676 Trường Chinh, sau đó Trung nhờ một thanh niên (không xác định) ký giả tên của Nguyễn Thị Mỹ Lệ vào hợp đồng tặng cho nhà, tờ khai lệ phí trước bạ nhà đất và viết hộ giấy uỷ quyền cho Trung cầm cố căn nhà số 676 Trường Chinh và ký tên giả của Lệ. Qúa trình điều tra xác định Hương không biết Trung đưa ký các giấy tờ đó là để Trung dùng để lừa đảo, việc Trung, Cường làm giấy tờ giả rồi lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người Hương không biết và cũng không có hưởng lợi gì từ việc phạm tội của Trung nên Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thành phố xét thấy chưa đủ chứng cứ khởi tố Hương. Riêng đối với tên Thuý là người do Nguyễn Thành Trung thuê làm giả giấy đăng ký xe ôtô biển số 52Z-4094, chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau (BL: 1649-1651).
Đối với căn nhà số 73 Bàu Cát, P.14, Q. Tân Bình, do Nguyễn Thành Trung mua từ ngày 31/5/2007, với giá 4 tỷ đồng. Ngày 4/6/2007, Trung thế chấp hồ sơ nhà số 73 Bàu Cát, vay 3 tỷ đồng của ngân hàng Việt Thái, đến ngày đáo hạn Trung không có tiền trả cho ngân hàng. Ngày 13/5/2008, Nguyễn Thành Trung ký hợp đồng bán căn nhà số 73 Bàu Cát với chị Lê Thị Hoàng Mai (ngụ: 12/53 Nguyễn Hữu Cảnh, P.19, Q.Bình Thạnh), với giá 1,5 tỷ đồng, tại phòng công chứng số 4 và Trung giao bản chính hồ sơ nhà cho chị Hoàng Mai. Qua điều tra, nhận thấy việc mua bán nhà giữa Nguyễn Thành Trung với chị Lê Thị Hoàng Mai là giao dịch dân sự, hợp pháp. Cơ quan điều tra không tiến hành ngăn chặn, kê biên căn nhà số 73 Bàu Cát để xử lý (BL: 344-348).
vụ này sử lý ra sao?
Vẫn kiêu hảnh ngẩng cao đầu kiêu hảnh.Vẫn cúi đầu tự nhủ phải cố lên.Trời cao tôi là vì sao lẻ.Dưới mặt đất tôi là kẻ cô đơn.Nổi buồn ơi nếu ngày là vật chất.Thì ta là kẻ giàu nhất thế gian.