Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 35 Nghị định 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng, có quy định:
Thời gian bảo hành đối với hạng mục công trình, công trình xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp được tính kể từ khi nghiệm thu theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 31 Nghị định này và được quy định như sau:
- Không ít hơn 24 tháng đối với công trình, hạng mục công trình cấp đặc biệt và cấp I;
- Không ít hơn 12 tháng đối với các công trình, hạng mục công trình cấp còn lại;
- Riêng đối với nhà ở, thời gian bảo hành theo quy định của pháp luật về nhà ở.
=> Như vậy, Thời gian bảo hành tối thiểu là 24 tháng đối với công trình, hạng mục công trình cấp đặc biệt và cấp I và tối thiểu là 12 tháng đối với các công trình, hạng mục công trình cấp còn lại.
Theo quy định tại Khoản 6, Điều 35 Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng thì “Chủ đầu tư phải thỏa thuận trong hợp đồng xây dựng với các nhà thầu tham gia xây dựng công trình về quyền và trách nhiệm của các bên trong bảo hành công trình xây dựng; thời hạn bảo hành công trình xây dựng, thiết bị công trình, thiết bị công nghệ; mức tiền bảo hành; việc lưu giữ, sử dụng, hoàn trả tiền bảo hành và việc thay thế tiền bảo hành công trình xây dựng bằng thư bảo lãnh của ngân hàng có giá trị tương đương...”.
Mức tiền bảo hành căn cứ quy định tại Khoản 7, Điều 35 Nghị định 46/2015/NĐ-CP để thực hiện.
=> Như vậy, tiền bảo hành công trình phải được lưu giữ, sử dụng, hoàn trả theo thỏa thuận trong hợp đồng.