TAND Tối cao giải đáp vướng mắc về xác định tội danh

Chủ đề   RSS   
  • #616720 24/09/2024

    phucpham2205
    Top 50
    Trung cấp

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:31/01/2024
    Tổng số bài viết (1346)
    Số điểm: 27118
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 562 lần


    TAND Tối cao giải đáp vướng mắc về xác định tội danh

    Ngày 10/9/2024, TAND Tối cao đã có Công văn 163/TANDTC-PC giải đáp một số vướng mắc trong xét xử. Cụ thể, TAND Tối cao đã giải đáp một số vướng mắc liên quan đến xác định tội danh. Cụ thể như sau.

    https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/9/24/163-TANDTC-PC.pdf Công văn 163/TANDTC-PC

    (1) Con đuổi cha mẹ ra khỏi nhà là xâm phạm chỗ ở hay tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ?

    Cụ thể, tại Công văn 163/TANDTC-PC có thắc mắc như sau:

    Một người có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự? 

    Trường hợp con ở cùng nhà với cha mẹ (nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ) mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 không? 

    Theo đó, TAND Tối cao đã giải đáp thắc mắc nêu trên như sau: 

    - Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 không quy định xâm phạm chỗ ở của người khác trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

    Theo đó, người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. 

    Trường hợp con ở chung với cha mẹ mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ theo quy định tại Điều 185 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

    (2) Làm giả giấy tờ là tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức hay tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức?

    Cụ thể, tại Công văn 163/TANDTC-PC có nêu vướng mắc liên quan đến tội làm giả con dấu như sau:

    Nguyễn Văn A vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn chết người. Trong quá trình điều tra phát hiện sử dụng GPLX hạng B2 giả (A cung cấp thông tin của mình cho đối tượng làm giả) để điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

    Trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức hay Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức?

    Đối với vướng mắc nêu trên, TAND Tối cao giải đáp như sau:

    Đối với trường hợp này, Bên cạnh việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ theo Điều 260 Bộ Luật Hình sự 2015 thì A còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017.

    Bên cạnh đó, TAND địa phương còn gặp vướng mắc trong trường hợp như sau: 

    Nguyễn Văn A nhờ người làm giả CCCD đứng tên người khác. Sau khi nhận được CCCD giả thì A dán ảnh của mình để lừa đảo chiếm đoạt 1,8 tỷ đồng. Theo đó, trong trường hợp này, A bị truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 hay bị truy cứu về 02 tội là làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017?

    Theo đó, TAND Tối cao giải đáp cho vướng mắc nêu trên như sau: Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức với tình tiết định khung là “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017.

    (3) Tài sản trộm được có giá trị nhỏ hơn tài sản đã hủy hoại để trộm thì định tội thế nào

    Cụ thể, trường hợp Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 05 triệu đồng. Tuy nhiên, két sắt do A hủy hoại có giá trị 10 triệu đồng. Trường hợp này, A chỉ phạm 01 tội là tội trộm cắp tài sản hay phạm 02 tội là trộm cắp tài sản và hủy hoại tài sản.

    Giải đáp cho vướng mắc nêu trên, TAND Tối cao cho rằng mặc dù A chỉ có động cơ, mục đích là trộm cắp nhưng buộc A phải nhận thức hành vi phá két sắt là hủy hoại tài sản của người khác. 

    Theo đó, hành vi của A đã cấu thành 02 tội là tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 Bộ Luật Hình sự 2015 và tội hủy hoại tài sản quy định tại Điều 178 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017.

    Bên cạnh đó, TAND cũng có nêu thêm một tình huống khác như sau:

    Nguyễn Văn A là nhân viên của cửa hàng điện thoại di động MT do ông Trần Thanh B làm chủ, cửa hàng MT được đăng ký kinh doanh là hộ kinh doanh. Trong quá trình làm việc, A được giao nhiệm vụ thu tiền bán thẻ điện thoại, máy điện thoại và có trách nhiệm trực tiếp quản lý tiền thu được và nộp lại cho chủ cửa hàng. Tại đây, A đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu tiền của khách hàng, A không nộp về cho cửa hàng mà chiếm đoạt số tiền 20 triệu đồng. Vậy hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tội tham ô tài sản?

    Cụ thể, TAND Tối cao giải đáp cho vướng mắc nêu trên như sau:

    Tại khoản 6 Điều 353 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 thì người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định.

    Tại khoản 1 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP có nêu rõ, Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. 

    Mà theo khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 thì doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.

    Như vậy, hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020. Theo đó, hành vi nêu trên của A đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017.

     
    78 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận