- Theo khoản 1, điều 141, Luật DN thì 1 trong đặc điểm của DNTN là do 1
cá nhân làm chủ có nghĩa là DNTN thuộc sở hữu của 1 con người cụ thể,
nhưng xét bản chất thì nguồn vốn thành lập DNTN lại là tài sản chung của
vợ chồng thì cả vợ chồng là người sở hữu DNTN đó. Thiết nghĩ ở đây cần
có chỉnh sửa trong luật DN, cần đưa thêm vấn đề tài sản chung của vợ
chồng để xác định chủ sở hữu đích thực,
- Theo điều 32 Luật Hôn nhân, gia đình 2000, tài sản riêng của vợ
chồng là những ts người đó có trc hôn nhân, ts đc thừa kế riêng, tặng
cho riêng..còn ts do vợ chồng tạo ra, kể cả ts đc tạo ra từ hoạt động
kinh doanh trong thời kì hôn nhân laf tài sản chung của vc( điều 27 Luật
HNGD) . Như vâyj, 1 vấn đề hiện nay đang diễn ra là: khi DNTN kinh
doanh có lãi, họ có quyền sử dụng toàn bộ số tiền này mua sám tài sản
chung cho cả gia đình, nghĩa là lợi tức từ hoạt động kinh doanh thì cả
gia đình đó đều đc hưởng. Trong khi đó, khi họ kinh doanh thua lỗ t hì
các chủ nợ chỉ có thể đòi đc nợ từ nửa số tài sản hcung đó, thực tế xảy
ra: khi các chủ nợ kê biên ts của chủ DN thì vợ con hoặc chòng con đều
nhận là ts của họ chứ ko phải của chủ DN. điều này là ko công bằng
đối với các chủ nợ . như vậy, đang có sự mâu thuẫn trong vấn đề này khi
mà chồng con, vợ con chủ DN có thể được hưởng chung lợi tức khi kd có
lãi nhưng lại ko chịu trách nhiệm khi kd thua lỗ. Thiết nghĩ ở đây pl
cần quy định cho các chủ nợ đc đòi nợ từ ts của cả gd, trừ những ts nào
mà các thành viên khác trong gd chứng minh đc rằng đó là ts của riêng
họ.
trích từ:
Cập nhật bởi se7en_up ngày 16/02/2012 10:09:20 CH