Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”

Chủ đề   RSS   
  • #593578 02/11/2022

    xuanuyenle
    Top 25
    Dân Luật bậc 1

    Vietnam
    Tham gia:02/08/2022
    Tổng số bài viết (2349)
    Số điểm: 81095
    Cảm ơn: 84
    Được cảm ơn 1693 lần


    Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”

    Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao nhận thấy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019, giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” giữa nguyên đơn bà H với bị đơn là bà C của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại thành phố M có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm.

    (1) Tóm tắt nội dung vụ án

    Nguyên đơn Bà H trình bày:

    Bà H cho rằng diện tích 1.962m² đất tranh chấp là thửa đất số 72 (thửa cũ 56), tờ bản đồ số 17, tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN, có nguồn gốc của cha mẹ chồng bà là cụ K và cụ H. Khi cụ K, cụ H chết thì chồng bà là ông Th, quản lý, sử dụng đất. Năm 1987, gia đình bà C có khó khăn, ông Th đã cho bà C tạm thời canh tác 2,5 sào. 

    Quá trình canh tác, bà C đã lấn chiếm thêm, đồng thời xây dựng nhà kiên cố trên đất. Mặc dù, đất tranh chấp từ năm 1992, nhưng đến năm 1993 bà C vẫn kê khai nộp được thuế. Ngày 09/10/1998, bà C làm đơn xin cấp GCN QSDĐ. Diện tích đất bà C xin cấp GCN QSDĐ là bà C mượn của gia đình bà canh tác, nhưng Hội đồng xét duyệt cấp GCN xã QTr lại xác nhận nguồn gốc đất của bà C có “nguồn gốc ông Th cho năm 1987 và bà C sử dụng ổn định phù hợp với quy hoạch ”. 

    Ngày 09/8/2002, ủy ban nhân dân (UBND) huyện ThNh cấp GCN QSDĐ cho bà C và ngày 21/12/2006 UBND huyện ThNh cấp lại GCN QSDĐ cho bà C diện tích 1.962m2 đất. Bà đã nhiều lần yêu cầu bà C trả đất, nhưng bà C không trả.

    Bị đơn bà C trình bày: 

    Năm 1975, gia đình bà vào lập nghiệp tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Thời điểm đó, gia đình bà gồm có bà, bà H (là em gái của bà) và anh L (là con của bà). Gia đình bà phát cỏ, canh tác trồng hoa màu (khoai lang, đậu, bắp...) trên diện tích đất tranh chấp. Lúc đó, ông Th sinh sống ở thành phố H thỉnh thoảng có về trông coi đất và nói với bà là đất gia đình bà đang canh tác là đất của ông Th nên bà có ngỏ lời xin phần đất này đề canh tác và được ông Th đồng ý. Ngày 08/12/1987, ông Th viết “Giấy xác nhận” cho bà diện tích đất trên.

    Do có tranh chấp nên ngày 21/11/2000 UBND huyện ThNh ban hành Quyết định số 1627/QĐ và ngày 19/12/2001, UBND tỉnh ĐN ban hành Quyết định 4835/QĐ bác đơn khiếu nại về việc tranh chấp diện tích đất và cấp cho gia đình bà.

    Do đó, bà không đồng ý với yêu cầu của bà H về việc đòi lại thửa đất nêu trên.

    (2) Quá trình giải quyết vụ án

    Quyết định của TAND tỉnh ĐN về quyết định dân sự sơ thẩm số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018:

    I. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 41/2015/TLST-DS ngày 14/10/2015 về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND ” giữa:

    -  Nguyên đơn: Bà H, sinh năm 1953; địa chỉ: 271/8 T, Phường 10, quận PhNh, thành phố H.

    Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Kh, sinh nám 1973 (theo văn bản và quyền ngày 22/12/2014); hộ khẩu thường trú: 1/5J Ch, Phường 14, quận GV, thành phố H.

    - Bị đơn: Bà C, sinh năm 1939; địa chỉ: F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN.

    Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Bà M, sinh năm 1960 (theo văn bản ủy quyền ngày 01/7/2015); địa chỉ: P505 nhà D5A phổ TrThT, phường DVH, quận CGi, thành phố H.

    -   Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. UBND tỉnh ĐN; địa chỉ: số 02 NgVTr, phường ThB, thành phố BH, tỉnh ĐN.

    2. UBND huyện ThNh, tỉnh ĐN; địa chỉ: Tập LTh, xã XTh, huyện ThNh, tỉnh ĐN.

    3.   Anh L, sinh năm 1961;

    4.   Bà Thị H, sinh năm 1957;

    Cùng địa chỉ: số nhà F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN.

    II. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án: Đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự này.

    Sau khi có Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm, ngày 12/12/2018 bà H có đơn kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bà H, hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

    Do có kiến nghị của Chánh án TAND tỉnh ĐN, ngày 14/3/2022, người có thẩm quyền đã ban hành Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2022/KN-DS đối với Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2012/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M.

    Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm ngày 28/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã xác định, phân tích, làm rõ vi phạm đề nghị hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2014/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M, giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 55/2018/QDST-DS ngày 31/10/2018 của TAND tỉnh ĐN và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

    (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

    - Diện tích đất tranh chấp 1.962m2 giữa các đương sự là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 17 (thửa cũ số 56, tờ bản đồ số 12) tọa lạc tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định thửa đất này năm 1995 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đó ông Th (chồng bà H) đã có tranh chấp quyền sử dụng thửa đất với bà C, nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND huyện ThNh theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 là đúng theo quy định của pháp luật.

    - Diện tích đất bà H tranh chấp với bà C đã được giải quyết tại Quyết định số 4835/QĐ-CTUBT ngày 19/12/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh ĐN là quyết định có hiệu lực thi hành.

    - Tòa án nhân dân tỉnh ĐN ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 là đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. TAND cấp cao tại thành phố M hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật là không có cơ sở.

    Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đã nghiên cứu hồ sơ chưa toàn diện nên không phát hiện ra vi phạm nêu trên của Tòa án.

    Trên đây là vi phạm của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” mà Kiểm sát viên VKSND không phát hiện kịp thời để thực hiện chức năng, nhiệm vụ khi kiểm sát xét xử phúc thẩm và thông báo phát hiện vi phạm đề nghị cấp có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

    Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND tối cao (Vụ 9) thông báo để các VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tương tự.

     
    648 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #593598   02/11/2022

    Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”

    Cảm ơn các thông tin hữu ích từ bài viết. Thực tế hiện nay cho thấy, việc xét xử của các Tòa án không phải lúc nào cũng chính xác và công minh. Việc không xét xử đúng trình tự, thủ tục và không công minh, công bằng khi xét xử sẽ dẫn đến sự mất công bằng trong xã hội. Do đó, việc Viện kiểm sát nhân dân kiểm tra, kiểm soát các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp là việc làm hết sức cần thiết. 

     
    Báo quản trị |  
  • #593801   10/11/2022

    Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”

    Cảm ơn thông tin bài viết của bạn. Thực tiễn cho thấy số lượng kháng nghị phúc thẩm án hành chính được ban hành còn ít hơn so với tổng số án hủy sửa, đặc biệt là trong các vụ án bị kháng cáo có vi phạm pháp luật về nội dung, thủ tục tố tụng nhưng VKSND cùng cấp chưa phát hiện để kháng nghị kịp thời, vẫn còn những kháng nghị chưa vững chắc, không được Tòa chấp nhận.

     

     
    Báo quản trị |