Quyết định số 21/2003/hđtp-ds ngày 23-06-2003 về vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh

Chủ đề   RSS   
  • #264701 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định số 21/2003/hđtp-ds ngày 23-06-2003 về vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh

    Số hiệu

    21/2003/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định số21/2003/hđtp-ds ngày 23-06-2003 về vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh

    Ngày ban hành

    23/06/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ21/2003/HĐTP- DS NGÀY 23-06-2003
    VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
    HÙN VỐN KINH DOANH
     
    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    .....................

    Tại phiên toà ngày 23-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Anh Phùng Khánh Đoàn; trú tại F6 cư xá Sơn Kỳ, phường 14, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;

    Bị đơn: Chị Phùng Khánh Đông; trú tại A4 khu 3, đường Trường Sơn, phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; uỷ quyền cho anh Kỹ Minh Đức.

    NHẬN THẤY:

    Theo lời trình bày của anh Phùng Khánh Đoàn thì ngày 14-08-1996 anh Phùng Khánh Đoàn, chị Phùng Khánh Ngân, chị Phùng Khánh Lý và chị Phùng Khánh Đông ký thoả thuận hùn vốn kinh doanh với nội dung: Thống nhất thành lập cơ sở kinh tế gia đình đầu tư vào việc khai thác kho xưởng để cho thuê tại địa điểm Công ty giống và cây trồng thuộc Sở nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, vốn khởi điểm cho nhu cầu hoạt động của cơ sở là 100.000.000 đồng. Sau một thời gian, chị Ngân và chị Lý rút phần hùn.

    Ngày 14-11-1996 anh Đoàn và chị Đông ký thoả thuận chia lợi nhuận với nội dung:

    - Tổng diện tích kho xưởng gồm có: 1) kho ở huyện Bình Chánh; 2) kho ở Tích Ngân; 3) kho ở 88 xa lộ; cả ba kho đều do chị Đông đại diện đứng tên thuê.

    - Hùn vốn không quy định cụ thể, tuỳ điều kiện của từng người có bao nhiêu bỏ vào bấy nhiêu.

    - Phương thức chia lãi được thoả thuận như sau: Sau khi trả vốn vay còn lại của chung sẽ được chia 6/4, chị Đông hưởng 60%, anh Đoàn hưởng 40%.

    - Đến tháng 06-1997 hai bên quyết định tiến hành quyết toán và phân chia kho để kinh doanh riêng. Trong thời gian hùn vốn kinh doanh hai bên đã xây dựng được 8 kho với tổng diện tích là 11.625m2 gồm: 3 kho toạ lạc tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 trong đó diện tích mỗi kho là 1.885m2; 1.500m2 và 1.300m2; 4 kho toạ lạc tại số 02 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 trong đó 3 kho có diện tích bằng nhau mỗi kho là 1.180m2 và 1 kho có diện tích là 1.400m2; 1 kho toạ lạc tại 366 Hùng Vương, huyện Bình Chánh.

    Chị Đông giao cho anh Đoàn một trong 3 kho tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 và 15, tháng sau sẽ giao tiếp một kho tại số 366 Hùng Vương, huyện Bình Chánh. Anh Đoàn đã nhận một kho tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 nhưng không đồng ý theo cách phân chia của chị Đông, nên đã khởi kiện yêu cầu giao thêm 2 kho tại 2 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 gồm: Một kho do anh Lê Trí Long là chủ Cơ sở Kim Long thuê có diện tích 1.400m2 và một kho do chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cho Cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê có diện tích 1.180m2. Anh Đoàn yêu cầu chị Đông trả số tiền thu nhập của hai kho từ tháng 07-1997 đến nay là 101.050USD và 578.000.000đồng, cùng phần vốn góp là 262.000.000đồng, đồng thời bồi thường do mất thu nhập trong một năm tại kho ở số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 do chị Đông chiếm giữ kho là 696.000.000 đồng. Ngoài ra, anh Đoàn còn yêu cầu chị Đông giao bình hạ thế tại cụm kho 1/47 Hương lộ 40, quận 12 cho anh Đoàn.

    Theo lời trình bày của chị Phùng Khánh Đông thì ngày 30-06-1997 chị Đông cùng chị Lý (do anh Đoàn uỷ quyền) đã thoả thuận phân chia lợi nhuận và trách nhiệm là:

    - Anh Đoàn nhận một kho có diện tích 1.885m2 tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 để tự khai thác kinh doanh với điều kiện là anh Đoàn phải chịu trách nhiệm đối với 54.000 USD tiền thế chân của khách thuê kho.

    - Anh Đoàn sẽ được tiếp tục nhận thêm một kho nữa tại 366 đường Hùng Vương, huyện Bình Chánh sau khoảng 15 tháng khi chị Đông thu tiền cho thuê kho để trả hết số nợ 285.878.000 đồng tiền chi phí đầu tư xây dựng.

    Tuy nhiên, sau khi nhận kho tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 anh Đoàn đã tự ý huỷ hợp đồng thuê kho với khách thuê, nên chị Đông đã phải trả cho khách 54.000 USD tiền thế chân. Tiếp đó, anh Đoàn yêu cầu được nhận ngay kho tại 366 đường Hùng Vương, huyện Bình Chánh trong khi còn nợ 285.878.000 đồng tiền chi phí đầu tư xây dựng. Chị Đông yêu cầu thực hiện theo thoả thuận ngày 30-06-1997.

    Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    - Buộc chị Phùng Khánh Đông phải giao thêm cho anh Phùng Khánh Đoàn 2 kho tại số 2 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 với đầy đủ các tiện nghi điện nước như nguyên trạng. Hai kho này được chỉ định như sau:

    + Kho có diện tích 1.400m2 (hiện do Cơ sở Kim Long thuê).

    + Kho có diện tích 1.180m2 (kho đầu tiên, bên phải, tính từ Quốc lộ 1A vào hiện do Cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê).

    Ngoài 2 kho nêu trên anh Đoàn còn được sử dụng chung bình hạ thế tại cụm kho này và được sử dụng chung đường giao thông từ cụm kho ra công lộ.

    - Anh Đoàn cùng Công ty giống và cây trồng căn cứ quyết định này để ký lại hợp đồng thuê mặt bằng cho phù hợp.

    - Các vấn đề quyền lợi, nghĩa vụ phát sinh giữa anh Đoàn với Cơ sở Kim Long và Kim Hoàn Vũ do các đương sự tự thương lượng giải quyết. Nếu có tranh chấp đương sự có thể khởi kiện thành một vụ án khác.

    Giao cho anh Đoàn quản lý bình hạ thế TBT- 630HVA22-15/0,4KV đặt tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12. Anh Đoàn phải giữ nguyên tình trạng sử dụng chung bình hạ thế này như vốn có từ trước.

    - Chị Phùng Khánh Đông có trách nhiệm giao cho anh Phùng Khánh Đoàn tiền lợi nhuận của 2 kho nêu trên, tính từ tháng 07-1997 đến tháng 05-2001 là 1.773.205.500 đồng.

    - Anh Đoàn có trách nhiệm giao cho chị Đông số tiền hoàn cọc cho khách thuê kho là 786.780.000 đồng.

    Cấn trừ hai khoản nêu trên, chị Đông còn phải giao cho anh Đoàn 986.427.500 đồng.

    - Bác yêu cầu anh Đoàn đòi chị Đông bồi thường 696.000.000 đồng tiền thiệt hại do chị Đông chiếm giữ kho và đòi bồi hoàn 262.000.000 đồng tiền vốn góp.

    Giải tỏa các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 06/KCTT ngày 04 tháng 02 năm 1999 và số 56/KCTT ngày 15 tháng 12 năm 1999.

    Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phí.

    Ngày 22-05-2001, anh Phùng Khánh Đoàn kháng cáo

    Ngày 23-05-2001, chị Phùng Khánh Đông kháng cáo.

    Tại Quyết định số 646/KNDS ngày 29-05-2001, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án sơ thẩm nêu trên và đề nghị Toà Phúc thẩm xử theo hướng: Bác yêu cầu của chị Đông về việc đòi anh Đoàn phải bồi thường thiệt hại số tiền cọc 54.000 USD= 786.780.000 đồng; Buộc chị Đông phải trả anh Đoàn số tiền vốn góp ban đầu là 262.000.000 đồng.

    Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định sửa một phần Bản án sơ thẩm như sau:

    - Bác yêu cầu của chị Phùng Khánh Đông đòi anh Phùng Khánh Đoàn hoàn trả số tiền 786.780.000 đồng mà chị Đông đã hoàn tiền đặt cọc cho khách thuê kho.

    - Giữ nguyên các quyết định khác của Bản án sơ thẩm.

    Sau khi xét xử phúc thẩm chị Phùng Khánh Đông có đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định số05/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 08-01-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm: “Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung”.

    XÉT THẤY:

    Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã chia thêm cho anh Đoàn hai kho tại 2 Bis Quốc lộ 1 A, quận 12 do cơ sở Kim Long và cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê là đúng. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng giá cho thuê kho 2.150USD đối với kho do cơ sở Kim Long thuê và 18.500.000 đồng đối với kho do cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê là chưa có căn cứ. Vì trong hồ sơ vụ án không có hợp đồng cho thuê kho với giá 2.150 USD và 18.500.000đồng. Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự để xác định giá cho thuê kho, trong khi lời khai của các đương sự có nhiều mâu thuẫn. Cụ thể: Theo lời khai của anh Đoàn thì kho do cơ sở Kim Long thuê với giá là 2.150 USD, kho do cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê với giá là 18.500.000đồng. Nhưng theo lời khai của chị Đông thì kho cho anh Lê Trí Long chủ cơ sở Kim Long thuê từ tháng 01-1997, thời hạn thuê là 5 năm, tiền thuê mỗi tháng là 2.150 USD, nhưng đến ngày 05-07-1997 chị Đông đã sang phần xây dựng kho này cho anh Long với giá 350.000.000 đồng, có cấn trừ tiền thế chân một năm, tiếp theo chị Đông chỉ cho anh Long thuê bãi với giá 6.000.000 đồng một tháng. Đối với kho cho chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê, kho này đầu tiên do Công ty Phương Phương thuê một năm, từ Tháng 12-1996, tiền thuê là 18.500.000 đồng một tháng, một năm là 222.000.000 đồng. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ thực hiện 6 tháng thì Công ty Phương Phương không thuê nữa, chị Đông đã trả lại cho Công ty Phương Phương 111.000.000 đồng và chấm dứt hợp đồng. Đến tháng 09-1998 mới cho cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê, nhưng chỉ cho thuê bãi với giá 6.000.000 đồng một tháng, còn phần xây dựng sang luôn cho cơ sở Kim Hoàn Vũ với giá 260.000.000 đồng. Theo lời khai của anh Lê Trí Long thì anh Long thuê kho từ tháng 01-1997, thời hạn thuê là 5 năm, tiền thuê kho là 6.000.000 đồng một tháng, tiền thế chân là 72.000.000. Lý do anh Long thuê kho chỉ với giá 6.000.000 đồng một tháng vì khi anh Long thuê chỉ có mặt bằng và 4 bức vách, sau khi thuê anh Long phải đầu tư xây dựng lại toàn bộ để thành cái kho như hiện nay. Anh Long khẳng định không bao giờ thuê kho nào của chị Đông với giá 2.150 USD. Đối với cơ sở Kim Hoàn Vũ thì Toà án chưa lấy lời khai của chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh, nhưng căn cứ vào hợp đồng ngày 07-05-1997 giữa chị Đông và chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cơ sở Kim Hoàn Vũ thì chị Đông uỷ quyền cho chị Thanh sử dụng mặt bằng có diện tích 1.200m2 trong thời hạn một năm với giá 6.000.000 đồng một tháng, thành tiền là 72.000.000 đồng. Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án còn có nhiều hợp đồng thuê kho với giá 6.000.000 đồng một tháng. Do đó, cần phải  xác minh nhằm xác định chính xác giá tiền và thời hạn thuê kho của cơ sở Kim Long và cơ sở Kim Hoàn Vũ để giải quyết vụ án cho đúng với thực tế khách quan.
     

    Đối với khoản tiền 54.000 USD: Xét thấy, chị Đông đã đồng ý giao cho anh Đoàn một kho toạ lạc tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 có diện tích là 1.885m2 để tự kinh doanh, trong khi kho này đang có khách thuê kho và đã đặt cọc cho chị Đông 54.000 USD thì về nguyên tắc chị Đông phải giao cho anh Đoàn số tiền do khách đặt cọc thuê kho. Tuy nhiên, theo lời khai của chị Đông thì ngày 30-06-1997 chị Đông cùng chị Lý (do anh Đoàn uỷ quyền) đã thoả thuận anh Đoàn nhận một kho có diện tích 1.885m2 tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 để tự khai thác kinh doanh với điều kiện là anh Đoàn phải tiếp tục cho khách thuê tiếp để cấn trừ số tiền 54.000 USD, nhưng sau khi anh Đoàn nhận kho; anh Đoàn đã đuổi khách thuê kho, nên chị Đông đã phải trả lại cho khách tiền đặt cọc. Anh Đoàn không thừa nhận có sự thoả thuận này. Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng chưa lấy lời khai của chị Lý để xác định có việc thỏa thuận về số tiền 54.000 USD hay không. Vì vậy, nếu Toà án xác định rõ hoặc chị Đông chứng minh được có việc thoả thuận ngày 30-06-1997 về việc phân chia kho như chị Đông khai thì phải buộc anh Đoàn chịu trách nhiệm đối với  khoản tiền đặt cọc này. Mặt khác, căn cứ vào biên bản thanh lý hợp đồng ngày 08-12-1997 thì số tiền 54.000 USD sau khi khấu trừ 18.000 USD tiền thuê kho trong 4 tháng nên chị Đông chỉ còn phải trả lại cho khách thuê kho là 36.000 USD. Do đó, nếu có việc thoả thuận ngày 30-06-1997 thì anh Đoàn  cũng chỉ phải chịu trách nhiệm đối với 36.000 USD.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

    Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:

    Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã xác định giá tiền và thời hạn thuê kho không đúng thực tế khách quan. Và chưa xác định rõ trách nhiệm của các bên đối với số tiền đặt cọc của khách thuê kho.

     

     
    3062 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận