Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa ông Trịnh Văn Dàng và ông Trịnh Mười

Chủ đề   RSS   
  • #265522 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa ông Trịnh Văn Dàng và ông Trịnh Mười

    Số hiệu

    02/2011/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa ông Trịnh Văn Dàng và ông Trịnh Mười

    Ngày ban hành

    23/02/2011

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    Ngày 23 tháng 02 năm 2011 , tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa:

    Nguyên đơn :

    1.Ông Trịnh Văn Dàng sinh năm 1942; trú tại nhà số C78/6 ấp Hiệp Thành, xã Hiệp Ninh, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

    2. Bà Trịnh Thị Tứ sinh năm 1944; trú tại nhà số 32/7 ấp Long Chí, xã Long Thành Trung, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

    Bị đơn: Ông Trịnh Mười sinh năm 1960; trú tại KT3-73/604K đường Phan Huy Ích, phường 12, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    l. Bà Trịnh Thị Ngài sinh năm 1937; trú tại nhà số 13/31 khu phố 2, phường 3 , thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh .

    2. Bà Trịnh Thị Lục sinh năm 1949; trú tại nhà số 26/6 ấp Ninh Tân, xã Ninh Sơn huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

    3. Bà Trịnh Thị Út sinh năm 1963; tru tại nhà số 677 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường 3 , thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

    4. Anh Trần Dũng sinh năm 1985.

    5. Anh Trần Đạt sinh năm 1987.

    Anh Trần Dũng và anh Trần Đạt đều đang cư trú tại Mỹ, địa chỉ: 4659S CHICAGO ST SEATTLF WA 98118.

    6. Bà Nguyễn Thị Mỹ Châu sinh năm 1961; trú tại tổ 7, ấp Tân Hoà, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

    7. Ông Nguyễn Văn Ngà sinh năm 1958; trú tại nhà số 1/132 ấp Hiệp Lễ, xã Hiệp Minh, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

    8. Bà Nguyễn Thị Hồng sinh năm 1959; tru tại ấp Hiệp Lễ, xã Hiệp Minh, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

    9. Bà Nguyễn Thị Hà sinh năm 1963; trú tại ấp Hiệp Lễ, xã Hiệp Minh, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh.

     

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khi kiện ngày 05-7-2000 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Trinh Văn Dàng và bà Trịnh Thị Tứ trình bày:

    Cụ Trịnh Sương Mai và cụ Nguyễn Thị Hằng có 07 người con là: bà Trịnh Thị Ngài, ông Trịnh Văn Dàng, bà Trịnh Thị Tứ, bà Trịnh Thị Lục, ông Trịnh Mười, bà Trịnh Thị Út và bà Trịnh Thị Kim Liên (chết năm 1987, có chồng là ông Trần Châu và có hai con là Trần Dũng sinh năm 1985 và Trần Đạt sinh năm 1987, đều đang cư trú tại Mỹ).

    Về tài sản: Hai cụ đã tạo lập được phần đất thổ cư có chiều rộng 26m, chiều dài 53m (có lúc ông Dáng và bà Tứ khai chiều dài thửa đất là 46m, BL 11 và BL 12) và một căn nhà lợp ngói trên đất này tại số 824 (số cũ là El04/1), đường Cách Mạng Tháng Tám, ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh. Năm 1978 cụ Hằng chết; năm 1980 cụ Mai chết đều không để lại di chúc.

    Sau khi hai cụ chết, ông Trịnh Mười quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Ông Trịnh Mười đã tự ý kê khai, đăng ký và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 7-11-1995 ông Trịnh Mười được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 1052m2; sau đó lén chuyển nhượng đất này cho nhiều người.

    Khi còn sống, hai cụ có cho ông Trịnh Văn Dàng một chiếc xe Hon da Dam (trị giá 48.000 đồng tiền chế độ cũ); các cụ chưa phân chia nhà đất cho các con. Do đó, ông bà yêu cầu chia thừa kế nhà, đất nêu trên theo pháp luật (tại "Đơn xin yêu cầu” ngày 08-3-2001, ông Trịnh Văn Dàng và bà Trịnh Thị Tứ chi yêu cầu chia thừa kế đất ở).

    Bị đơn và ông Trịnh Mười trình bày: Hai cụ tạo lập được căn nhà lớp ngói trên phần đất thổ cư rộng 24m, dài 50m (có lúc ông Mười khai rằng: chiều dài thửa đất là 46m, BL70) tại số 824 đường Cách Mạng Tháng Tám, ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh, huyện Hòa Thành. Ông ở với hai cụ, nên được hai cụ cho nhà đất nêu trên (việc cho đất không lập giấy tờ, nhưng các anh chị em đều biết). Ông Trịnh Văn Dàng cũng được cha mẹ cho một phần đất (8m x 30m) tại ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh vào năm 1968 và đã cất nhà cho ông Dàng ra ở riêng tại đó (sau này ông Dàng bán đất này và mua phần đất khác) . Những người con gái của hai cụ khi lập gia đình cũng được hai cụ cho tài sản.

    Từ năm 1989 đến năm 1995, cụ Đặng Thị Khen (là cô ruột của ông) đã tranh chấp với ông về phần đất nêu trên và đã được chính quyền các cấp tại địa phương giải quyết, trong đó, tại Quyết định số57/QĐ-UB ngày 7-6-1995, Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định: công nhận cho ông Trịnh Mười được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích 1196m2. Tọa lạc tại ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh, huyện Hòa Thành".

    Đến ngày 7-11-1995, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích l052m2 (thuộc thửa số 544, tờ bản đồ 01 xã Hiệp Ninh, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh). Từ năm 1998 đến năm 2000, ông đã chuyển nhượng đất này cho 04 người, cụ thể :

    - Năm 1998 chuyển nhượng cho vợ chồng ông Phùng Tuấn Thu, bà Nguyễn Thị Mỹ Châu 300m2 đất (6m x 50m) với giá 120 chỉ vàng.

    - Năm 1999 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hồng 300m2 đất (6m x 50m) với giá 180 chỉ vàng.

    - Năm 2000 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Hà 250m2 đất (5m x 50m) với giá 75.000.000đồng.

    - Năm 2000 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Ngà phần đất khoảng 8m x 50m với giá 107.250.000đồng.

    Với các lý do trên, ông không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trịnh Thị Ngài, bà Trịnh Thị Út và bà Trịnh Thị Lục trình bày:

    Nhà đất nêu trên có nguồn gốc của cha mẹ các bà tạo lập. Ông Trịnh Mười đã phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống và thờ cúng sau khi cha mẹ chết, nên các bà đồng ý để ông Trịnh Mười được quyền sở hữu, sử dụng nhà đất. Nếu Tòa án chia thừa kế thì các bà cho ông Trịnh Mười phần thừa kế của các bà.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Mỹ Châu, ông Nguyễn Văn Ngà, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hà trình bày:

     Ông và các bà đều là người nhận chuyển nhượng đất của ông Trịnh Mười. Khi ông Trịnh Mười chuyển nhượng đất này thì ông Trịnh Mười đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất. Các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Trịnh Mười với ông và các bà đều hợp pháp. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông và các bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, yêu cầu được tiếp tục sử dụng đất.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 34/STDS ngày 26-9-2001, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định:

    - Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Trịnh Văn Dàng và bà Trịnh Thị Tứ.

    - Ông Trịnh Mười quản lý giá trị di sản thừa kế đã bán là 300 chỉ vàng 24K 96% và 182.250.000 đồng, nên ông Trịnh Mười phải có trách nhiệm giao cho ông Trịnh Văn Dàng và bà Trịnh Thị Tứ mỗi người được quyền sở hữu 85 chỉ vàng 24K 96%.

    - Giao cho ông Trịnh Mười quản lý 85 chỉ vàng 24K 96% cho hai cháu Trần Đạt và Trần Dũng đến khi 2 cháu đủ 18 tuổi có quyền định đoạt. Ông Trịnh Mười đựơc sở hữu 45 chỉ vàng 24K 96% và 182.250. 000 đồng hiện ông Trịnh Mười đang giữ.

    - Ghi nhận các bà Trịnh Thị Ngài, Trịnh Thị Lục và Trịnh Thị Út không nhận phần di sản thừa kế được chia, cho lại ông Trịnh Mười được quyền sở hữu.

    Bà Nguyễn Thị Mỹ Châu được quyền sử dụng 300m2 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04443 ngày 29-9-2000. Ông Nguyễn Văn Ngà đựơc quyền sử dụng 215m2 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04532 ngày 15-8-2000. Bà Nguyễn Thị Hồng được quyền sử dụng phần đất thổ cư 300m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04411 ngày 21-8-2000. Bà Nguyễn Thị Hà được quyền sử dụng 250m2 đất thổ cư theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04445 ngày 29-9-2000.

    - Ông Trịnh Mười phải tháo dỡ toàn bộ phần còn lại của căn nhà để giao đất cho bà Châu, ông Ngà, bà Hồng và bà Hà.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết đinh về án phí.

    Ngày 05-10-2001, ông Trịnh Mười có đơn kháng cáo không đồng ý chia thừa kế.

    Ngày 10-10-2001, ông Trịnh Văn Dàng, bà Trịnh Thị Tứ có đơn kháng cáo yêu cầu được chia thừa kế là đất ở.

    Tại Quyết định số 448B/DSPT ngày 13-12-2001, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh tạm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án.

    Ngày 17-9-2006, ông Trịnh Văn Dàng và bà Trịnh Thị Tứ có đơn yêu cần Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 481/2006/DSPT ngày 13-11-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau đó ông Trịnh Văn Dàng có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm. Ông Trịnh Mười cũng có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm (Đơn của ông Trịnh Mười do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chuyển đến Tòa án nhân dân tối cao kèm theo công văn số 2079/UBTP12 ngày 18-12-2008).

    Tại Quyết định số634/2009/DS-KN ngày 12-11-2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 481/2006/DSPT ngày 13-11-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 34/STDS ngày 26-9-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    Về tố tụng: Ngày 06-10-2006, Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa vào 07 giờ 30 phút ngày 24-10-2006. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24-10-2006, ông Trịnh Văn Dàng có mặt, còn bị đơn là ông Trịnh Mười vắng mặt không có lý do, nên Tòa án cấp phúc thẩm ra Quyết định số130/QĐ-HPT ngày 24-10-2006 hoãn phiên tòa phúc thẩm.

    Ngày 27-10-2006, Tòa án cấp phúc thẩm lại có giấy triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa vào 07 giờ 30 phút ngày 13-11-2006. Ngày 13-11-2006 Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa, nhưng ông Trịnh Văn Dàng vắng mặt. Như vậy ông Trịnh Văn Dàng là người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Trịnh Văn Dàng, là không đảm bảo quyền lợi của ông Dàng tại phiên tòa phúc thẩm.

    Về nội dung: Diện tích đất đang tranh chấp tại số 824 đường Cách Mạng Tháng Tám, ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh có nguồn gốc của cụ Trịnh Sương Mai (chết năm 1980) và cụ Nguyễn Thị Hằng (chết năm 1978) để lại. Theo lời trình bày của ông Trịnh Mười thì khi còn sống hai cụ đã cho ông đất này, nhưng không lập thành văn bản, từ năm 1989 đến năm 1995 cụ Đặng Thị Khen (là cô ruột của ông) có tranh chấp với ông về diện tích đất này, chính quyền các cấp ở địa phương đã giải quyết và công nhận cho ông được quyền sử dụng đất; ngày 07-11-1995 ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; từ năm 1998 đến năm 2000 ông đã chuyển nhượng toàn bộ đất nêu trên cho bốn người khác (mỗi người một phần).

    Trong hồ sơ vụ án có lưu bản phô tô các Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân xã Hiệp Ninh, của Ủy ban nhân dân huyện hòa Thành và của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh; trong đó, tại Quyết định số57/QĐ-UB ngày 7-6-1995 Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định: …“Điều II: công nhận cho ông Trịnh Mười được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích 1196m2. Tọa lạc tại ấp Hiệp Bình, xã Hiệp Ninh, huyện Hòa Thành.". Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không yêu cầu đương sự xuất trình bản gốc (hoặc bản sao) các Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai nêu trên và không xem xét, đánh giá các Quyết định đó (dù là các bản phô tô) để làm căn cứ cho việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc là không đầy đủ, không toàn diện.

    Trong trường hợp này cần làm rõ thửa đất đang tranh chấp có phải thửa đất mà Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương đã giải quyết hay không; nếu tranh chấp đất đai này đã được Ủy ban nhân dân giải quyết trước đây (Quyết định số57/QĐ-UB ngày 07-6-1995 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh vẫn còn hiệu lực) và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trịnh Mười là đúng căn cứ, trình tự và thẩm quyền thì Tòa án không có thẩm quyền giải quyết vụ án, phải đình chỉ giải quyết vụ án, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện cùng các tài liệu kèm theo cho đương sự.

    Trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết cua Tòa án thì các tài liệu hiện có trong hồ sơ vụ án cho thấy từ năm 1998 đến năm 2000, ông Trịnh Mười đã chuyển nhượng đất chó bốn người, trong đó chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Mỹ Châu và bà Nguyễn Thị Hồng thì giá cả chuyển nhượng bằng vàng (tổng cộng là 300 chỉ vàng); còn chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị Hà và ông Nguyên Văn Ngà thì giá chuyển nhượng bằng tiền đồng Việt Nam (tổng cộng là 182.250.000 đồng). Trong trường hợp này, nếu có căn cứ để chia thừa kế thì phải xác định di sản của hai cụ là 300 chỉ vàng và 182.250.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã quy 182.250.000 đồng ra vàng làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng. Mặt khác, các bên đương sự không có yêu cầu ông Trịnh Mười tháo dỡ công trình trên đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại buộc “ông Trịnh Mười phải tháo dỡ toàn bộ phần còn lại của căn nhà để giao đất cho bà Châu, ông Ngà, bà Hồng và bà Hà”. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm, mà vẫn quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

    Vụ án này được xét xử sơ thẩm ngày 26-9-2001; ngày 13-12-2001 Tòa án cấp phúc thầm tạm đình chỉ giải quyết vụ án; đến ngày 13-11-2006 vụ án mới được đưa ra xét xử phúc thẩm; như vậy, thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án gần 5 năm. Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ sự biến động của tài sản đang tranh chấp; ý kiến của bà Trịnh Thị Ngài, bà Trịnh Thị Lục và bà Trịnh Thị Út, anh Trần Dũng sinh năm 1985 và anh Trần Đạt sinh năm 1987 (anh Dũng và anh Đạt đang cư trú tại Mỹ) cũng chưa được hỏi ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, mà vẫn quyết định giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là thiếu căn cứ.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 481/2006/DSPT ngày 13-1 1-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 34/STDS ngày 26-9-2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Trịnh Văn Dàng, bà Trịnh Thị Tứ với bị đơn là ông Trịnh Mười và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trịnh Thị Ngài, bà Trịnh Thị Lục, bà Trịnh Thị Út, anh Trần Dũng, anh Trần Đạt, bà Nguyễn Thị Mỹ Châu, ông Nguyễn Văn Ngà, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hà .

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm tại theo quy định của pháp luật. 

     

     
    6212 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận