Số hiệu
|
03/2010/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án "Tranh chấp thừa kế tài sản" giữa bà Nguyễn Thị Phương và ông Mai Xuân Hoàng
|
Ngày ban hành
|
07/01/2010
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
….
Ngày 07 tháng 01 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế tài sản" giữa:
Nguyên đơn:
- Ông Mai Xuân Hoàng, sinh năm 1934; trú tại: nhà số 440 Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi;
- Ông Mai Xuân Anh, sinh năm 1946; trú tại: nhà số 202 Lê Trung Đình thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi;
Bị đơn:
Bà Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1934; trú tại: thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Mai Thị Mỹ, sinh năm 1941; trú tại: 54 Lý Thường Kiệt, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam;
- Bà Mai Thị Tài; trú tại: 12102 B 11 th PL.W.EVRETT W.A98204-USA,
- Bà Mai Thị Yên, sinh năm 1958; trú tại: tổ 10, phường Cẩm Châu, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam, ủy quyền cho bà Mai Thị Mỹ; 54 Lý Thường Kiệt, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam;
- Chị Mai Thị Hai, sinh năm 1958 ;
- Chị Mai Thị Bảy, sinh năm 1968 ;
Đều trú tại: thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam;
- Chị Mai Thị Ba, sinh năm 1960; trú tại: tổ 2, khối 1, phường Thanh Hà, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam;
- Chị Mai Thị Năm, sinh năm 1964; trú tại: khối Sơn Phô, phường Cẩm Châu, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam;
- Chị Mai Thị Sáu, sinh năm 1965: trú tại: khối An Phong, phường Tân An, thị xã (nay là thành phố) Hội An, tỉnh Quảng Nam.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03-11-2003 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là các ông Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh trình bày:
Sinh thời cụ Mai Bán và cụ Lê Thị Lời (là cha mẹ của các ông) tạo lập được căn nhà cấp 4 lớp tôl trên 3.300m2 đất tại thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An (nay là thành phố Hội An). Năm 1987 cụ Bán chết, ngày 04-01-1994 cụ Lời chết. Diện tích đất nêu trên do bà Nguyễn Thị Phương (vợ của ông Mai Tứ, chết năm 1969, ông Tứ cũng là con của cụ Bán, cụ Lời) quản lý, sử dụng. Vì vậy, các ông yêu cầu chia thừa kế diện tích đất nêu trên cho các con của hai cụ là các ông, bà Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh, Mai Thị Mỹ, Mai Thị Tài, Mai Thị Yên và các thừa kế thế vị của ông Mai Tứ.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Phương trình bày: Có lời khai cho rằng diện tích đất mà bà đang quản lý sử dụng hiện nay, trong đó có l.970m2 đất là của cha, mẹ chồng của bà là cụ Mai Bán và cụ Lê Thị Lời cho mẹ con bà từ sau năm 1975. Việc cha, mẹ chồng của bà cho bà diện tích đất này chỉ bằng miệng chứ không có giấy tờ; có lời khai bà Phương lại cho rằng diện tích đất trên cụ Bán đã hiến cho Hợp tác xã và Hợp tác xã đã giao cho gia đình bà theo Quyết định 201 và theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, căn nhà cấp 4 lợp tol là do mẹ con bà xây cất, không phải của cụ Bán nên bà không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của các nguyên đơn.
Những người có quyền lợi, nghiã vụ liên quan:
- Bà Mai Thị Mỹ, và Mai Thị Yên trình bày: Diện tích đất mà bà Phương đang quản lý, sử dụng hiện nay là của cụ Bán và cụ Lời (là cha, mẹ của các bà) để lại. Nếu Tòa án giải quyết chia thừa kế thì các bà yêu cầu được nhận kỷ phần thừa kế của mình.
- Chị Mai Thị Hai, chị Mai Thị Ba, chị Mai Thị Bảy (các con của ông Tứ) trình bày: Nếu Tòa án chia thừa kế đối với diện tích đất mà bà Nguyễn Thị Phương (mẹ của các chị) đang sử dụng hiện nay, thì yêu cầu được nhận kỷ phần theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2006/DSST ngày 30-3-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam quyết định:
Áp dụng Điều 631, 676 và 677 Bộ luật dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của các đồng nguyên đơn.
Diện tích đất 3.217, 5m2 tại thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An hiện nay bà Nguyễn Thị Phương đang sử dụng là di sản thừa kế do cụ Mai Bán và cụ Lê Thị Lời để lại.
Giao cho ông Mai Xuân Hoàng, ông Mai Xuân Anh mỗi người được sử dụng 702 m2 đất vườn, bà Mai Thị Mỹ được sử dụng 468m2 đất vườn; bà Mai Thị Yên được sử dụng 341, 5m2 đất vườn; bà Mai Thị Bảy đựơc sử dụng 486m2 đất vườn, bà Nguyễn Thị Phương được sử dụng diện tích đất 536m2 trong đó có 300m2 đất ở và 236m2 đất vườn tại thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An (có sơ đồ kèm theo).
Bà Nguyễn Thị Phương phải có nghĩa vụ thối trả cho bà Mai Thị Yên số tiền là 116.380. 000đ (Một trăm mười sáu triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng).
Chị Mai Thị Bảy có nghiã vụ thối trả cho chị Mai Thị Hai, chị Mai Thị Ba, chị Mai Thị Năm, chị Mai Thị Sáu mỗi người số tiền là 86.117.142đ (Tám mươi sáu triệu một trăm mười bảy nghìn một trăm bốn mươi hai đồng).
Kiến nghị Uỷ ban nhân dân thị xã Hội An thu hồi Giẩy chứng nhận quyền sử dụng đất số 800908 ngày 11-3-1997 của Ủy ban nhân dân thị xã Hôi An cấp cho bà Nguyễn Thị Phương và xem xét giải quyết đối với diện tích đất 300m2 mà bà Nguyễn Thị Phương đã tư khai hoang.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 06-4-2006, chị Mai Thị Hai kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.
Ngày l0-4-2006, bà Nguyễn Thị Phương kháng cáo không đồng ý chia thừa kế vì nhà đất có tranh chấp không phải của cụ Bán, cụ Lời.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 51 ngày 08-8-2006, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của các đồng nguyên đơn.
Diện tích 3.217,5m2 đất tại thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An hiện nay bà Nguyễn Thị Phương đang sử dụng là di sản thừa kế do ông Mai Bán là bà Lê Thị Lời để lại. Giữ y các quyết định khác của án sơ thẩm.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Phương có đơn khiếu nại cho rằng tuy diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ Mai Bán, cụ Lê Thị Lời, nhưng hai cụ đã cho mẹ con bà làm nhà ở từ sau khi giải phóng Miền Nam. Năm 1978 đất đã đưa vào Hợp tác xã và sau này chính quyền địa phương thực hiện theo Quyết định 201 đã giao đất cho gia đình bà. Di sản của hai cụ nện nay không phải là tài sản tranh chấp mà là l.660m2 đất gắn liền với nhà và đất nông nghiệp do gia đình chị Mai Thị Sáu đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, đất tranh chấp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Việc Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định nhà đất bà đang quản lý sử dụng là tài sản của cụ Bán, cụ Lời để chia thừa kế là không đúng pháp luật và không đúng thẩm quyền.
Tại Quyết định số345/2009/KN-DS ngày 14-7-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 51 ngày 08-8-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nên trên và Bản án dân sự sơ thẩm số02/2006/DS-ST ngày 30-3-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam; giao hổ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:
Căn cứ các tài liệu chứng có trong hồ sơ vụ án thì vợ chồng cụ Mai Bán, cụ Lê Thị Lời có 6 người con chung gồm các ông, bà Mai Tứ, Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh, Mai Thị Mỹ, Mai Thị Tài đang( định cư tại Hoa Kỳ), Mai Thị Yên. Về tài sản, sinh thời hai cụ tạo lập được 3.320m2 đất ( đo thực tế là 3.217,5m2 đã trừ 300m2 đất bà Phương khai hoang) tại thửa 99 tờ bản đồ số 7 thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam, hiện nay bà Nguyễn Thị Phương (là con dâu của hai cụ) đang quản lý, sử dụng và ngoài ra hai cụ còn có các tài sản khác (quá trình giải quyết vụ án, các nguyên đơn không tranh chấp). Bà Phương cho rằng diện tích đất nêu trên trước đây là của cụ Bán, cụ Lời, nhưng từ năm 1976 hai cụ đã cho gia đình bà làm nhà ở, năm 1978 bà đã đưa đất vào Hợp tác xã và năm 1980 thực hiện Quyết định 201/CP ngày 01-7-1980 của Chính phủ, chính quyền địa phương đã cấp cho gia đình bà, nên diện tích đất này không còn là di sản của hai cụ, mà tài sản của hai cụ hiện nay là một nhà lá gắn liền 1.660m2 đất tại khối An Phong, Tân An, Hội An do và Mai Thị Mỹ (con gái của hai cụ) đứng tên; 1.000m2 đất màu và 2 thửa đất lúa (1 thửa diện tích 1.174m2; 1 thửa 755m2) do chị Mai Thị Saú (cháu nội của 2 cụ) đứng tên.
Cụ Bán chết năm 1987, cụ Lời chết ngày 04-01-1994 đều không để lại di chúc. Ngày 03-11-2003, các nguyên đơn mới khởi nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ. Trong trường hợp này lẽ ra phải xác minh làm rõ tài sản của hai cụ là bao nhiêu thửa đất. Trên các thửa đất có tranh chấp có nhà ở hay không; có hay không có việc bà Phương đưa đất vào hợp tác xã và hợp tác xã giao lại cho bà; việc đăng ký kê khai nhà, đất của các đương sự đã đúng quy định của pháp luật hay chưa? Đồng thời phải xác định khi các nguyên đơn khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế tài sản của cụ Bán đã hết, từ đó mới có đủ căn cứ giải quyết vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng trên diện tích đất do bà Phương quản lý không có nhà của hai cụ, nhưng lại chấp nhận của tài sản của cụ Bán là không có căn cứ và không đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, thực tế bà Mai Thị Tài hiện đang định cư tại Hoa Kỳ, ngày 27-5-2004 bà Tài có đơn “ Về việc không nhận quyền thừa hưởng đất đai của cha mẹ" mà nhường cho các ông Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh (đơn do ông Anh xuất trình) nhưng đơn của bà Tài chưa được hợp pháp hóa lãnh sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại chấp nhận là vi phạm khoản 5 Điều 24 Pháp lệnh lãnh sự năm 1991 và Thông tư số01/1999/TT-NG ngày 03-6-1999 của Bộ ngoại giao quy định thế lệ hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì các nguyên đơn khởi kiện cho rằng vợ chồng cụ Mai Bán, cụ Lê Thị Lời khi còn sống đã tạo lập được căn nhà lợp tol cấp 4 trên diện tích 3.320m2 đất (đo thực tế là 3.217,5m2, đã trừ 300m2 đất bà Nguyễn Thị Phương khai hoang) tại thửa 99 tờ bản đồ số 7 thôn Cửa Suối, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam; Năm 1975, hai cụ đồng ý cho mẹ con bà Nguyễn Thị Phương (con dâu của hai cụ) đến ở để trông coi khu vườn giúp hai cụ. Trong khi đó, bà Phương cho rằng năm 1975 cụ Bán, cụ Lời chỉ cho mẹ con bà 1.970m2 đất để làm nhà ở, khi cho chỉ có đất mà không có nhà của hai cụ, quá trình quản lý, sử dụng gia đình bà khai phá thêm 1.164m2 nên mới có diện tích đất như hiện nay; có lời khai bà Phương cho rằng sau khi giải phóng đất của hại cụ bỏ hoang hóa nên mẹ con bà khai phá sử dụng. Khi Nhà nước có chủ trương đưa đất vào Hợp tác xã thì gia đình bà đã đưa toàn bộ đất mà gia đình bà đang sử dụng vào Hợp tác xã. Năm 1980 chính quyền địa phương đã giao lại đất cho gia đình bà theo Quyết định 201/CP ngày 01-7-1980 của Chính phủ và khi thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ thì chính quyền địa phương đã cân đối quỹ đất và giao đất cho gia đình bà theo định mức, nhân khẩu nên nhà, đất mà bà đang quản lý, sử dụng không còn là tài sản của hai cụ, mà tài sản của hai cụ là một ngôi nhà gắn liền 1.660m2 đất ở khối An Phong, phường Tân An, thành phố Hội An do gia đình bà Mai Thị Mỹ sử dụng và 1.000m2 đất lúa; 1.929m2 đất nông nghiệp do chị Mai Thị Sáu quản lý, sử dụng. Theo Biên bản xác minh ngày 17-7-2006, đại diện chính quyền xã Cẩm Hà gồm ông Nguyễn Kim Sáu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; ông Nguyễn Hoang, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp; bà Nguyễn Thị Phương Linh, cán bộ địa chính xã thì địa phương giao đất cho hộ gia đình bà Phương theo Nghị định 64/CP và diện tích đất đang tranh chấp gia đình bà Phương đang sử dụng từ trước đến nay ( từ trước giải phóng) cụ Bán không có nhà.
Như vậy, đại diện chính quyền địa phương và các đương sự có khai mâu thuẫn về nhà, đất của cụ Bán, cụ Lời. Lẽ ra, phải thu thập, xác minh làm rõ tài sản của hại cụ gồm bao nhiêu thửa đất, trên các thửa đất có tranh chấp có nhà ở hay không; đồng thời xác minh tại các cơ quan Nhà nước thẩm quyền ở địa phương để xác định về nguồn gốc nhà, đất có tranh chấp; có hay không việc đưa đất vào hợp tác xã và chính quyền địa phương giao đất cho gia đình bà Phương khi thực hiện các chính sách về quản lý đất đai của Nhà nước; việc đăng ký kê khai nhà, đất của các đương sự đã đúng quy định của pháp luật hay chưa thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án.
Trong trường hợp sau khi xác minh mà có căn cứ xác định diện tích đất có tranh chấp vẫn là của hai cụ và trên diện tích đất có tranh chấp không có nhà ở của hai cụ, thì cần xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế tài sản của cụ Bán đã hết và chỉ xem xét chia thừa kế tài sản của cụ Lời theo quy định của pháp luật. Đồng thời xem xét xác định chính xác diện tích đất do mẹ con bà Phương khai phá. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh, làm rõ các vấn đề nêu trên, nhưng lại xác định quyền sử dụng diện tích đất do mẹ con bà Phương đang quản lý, sử dụng ( sau khi trừ 300m2 do mẹ con bà Phương khai phá thêm) là tài sản của cụ Bán, cụ Lời để chia thừa kế là chưa đủ căn cứ, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Mặt khác, bà Mai Thị Tài hiện đang định cư tại Hoa Kỳ, ngày 27-5-2004 bà Tài có đơn “ Về việc không nhận quyền thừa hưởng đất đai của cha mẹ” mà nhường cho các ông Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh ( đơn do ông Anh xuất trình), nhưng đơn của bà Tài chưa được hợp pháp hóa lãnh sự, nên việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận đơn trên để xem xét là trái với quy định tại khoản 5 Điều 24 Pháp lệnh lãnh sự năm 1991 và Thông tư số01/1999/TT-NG ngày 03-6-1999 của Bộ ngoại giao quy định thể lệ hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 51 ngày 08-8-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và hủy bản án dân sự sơ thấm số02/2006/DS-ST ngày 30-3-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về vụ án "Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là các ông Mai Xuân Hoàng, Mai Xuân Anh với bị đơn là bà Nguyễn Thị Phương; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Mai Thị Mỹ, Mai Thị Tài, Mai Thị Yên và các anh, chị Mai Thị Hai, Mai Thị Bảy, Mai Thị Ba, Mai Thị Năm, Mai Thị Sáu.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm tại theo đúng quy định của pháp luật.