Quyết định giám đốc thẩm xé xử vụ án ly hôn giữa ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ

Chủ đề   RSS   
  • #265479 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xé xử vụ án ly hôn giữa ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ

    Số hiệu

    23/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xé xử vụ án ly hôn giữa ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ

    Ngày ban hành

    06/05/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

    Ngày 06 tháng 5 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án "ly hôn" giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: ông Trần Hiên, sinh năm 1942;

    Trú tại: Số 16 (số cũ là 10A4) ngõ 2 Giảng Võ, Đống Đa, Hà Nội.

    Bị đơn : Bà Trịnh Thị Huệ, sinh năm 1956;

    Trú tại: Số 22 Hai Bà Trưng, phường An Biên, quận Lê Chân, Hải Phòng.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

    1. Chị Trần Thị Trang Nhung (con gái ông Hiên), sinh năm 197 2;

    2. Anh Lê Trung Kiên (con rể ông Hiên), sinh năm 1971;

    3. Cháu Lê Anh Quân, sinh năm 2003 (con trai chị Nhung), do chị Nhung đại diện.

    Đều trú tại số 6 (cũ là số 1) ngõ Hồ Cây Sữa, quận Đồng Đa, Hà Nội;

    4. Chị Nguyễn Thị Mai Hương (con dâu ông Hiên), sinh năm 1974;

    5. Anh Trần Trí Thành (con ông Hiên), sinh năm 1971;

    6.Cháu Trần Khánh Linh, sinh năm 2002 (con gái anh Thành) (do anh Thành đại diện);

    7. Cháu Trần Quốc Việt, sinh năm 2007 (con trai anh Thành) (do anh Thành đại diện);

    Đều trú tại số 16 (số cũ là 10A4) ngõ số 2, Giảng Võ, quận Đống Đa, Hà Nội.

    8. Chị Trần Thị Hương Giang (con gái ông Hiên), sinh năm 1986

    Trú tại số 16 (số cũ và 10A4) ngõ số 2, Giảng Võ, quận Đống Đa, Hà Nội.

    9. Bà Nguyễn Thị Hòa (vợ cũ ông Hiên), sinh năm 1949;

    Trú tại số 6 (cũ là số 1) ngõ Hồ Cây Sữa, quận Đống Đa, Hà Nội;

    10. Ngân hàng cổ phần Phương Nam;

    11. Trung tâm tư vấn pháp luật về xây dựng và bất động sản;

    12. Văn phòng tư vấn và nghiên cứu xây dựng tượng đài Trần Hưng Đạo.

     

    NHẬN THẤY

    Tại đơn xin ly hôn đề ngày 18/5/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Trần Hiên trình bày:

    Ông và bà Huệ đăng ký kết hôn ngày 15/11/2000. Trước khi kết hôn với nhau, ông Hiên và bà Huệ đều đã có vợ, chồng và có con riêng, nhưng đã ly hôn. Sau kết hôn, ông và bà ở với nhau rất ít, bà Huệ thường xuyên về ở tại Hải Phòng để chăm sóc cho mẹ và con của bà Huệ. Đến năm 2001, thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, nên không thể ở với nhau được. Nay ông làm đơn xin ly hôn.

    Về con chung: không có con chung.

    Về nhà ở chung: không có.

    Về động sản: sau khi kết hôn, kinh tế của hai người riêng biệt nên không có tài sản chung; các tài sản hiện có ở nhà gồm 04 chiếc điều hỏa và 05 bình nóng lạnh là của anh Thành con trai ông, bộ bàn ghế bằng gỗ trắc ông mua từ năm 1999, 02giường, 02 tủ gỗ là của ông mua trước khi kết hôn, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật; chiếc xe ô tô Matiz do bà Huệ mua năm 2002, ông đã mua lại chiếc xe này vào tháng 3 năm 2003 và trả bà Huệ đủ 10.000USD nên đây là tài sản riêng của ông.

    Về nhà ở riêng: nhà số 1 ngõ Hồ Cây Sữa đã được cấp sổ đỏ tên ông vào năm 2000; nhà số 16 ngõ 2 Giảng Võ, Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội (số cũ là số 10 A4, ngõ 2, Giảng Võ) là tiêu chuẩn của ông được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội duyệt bán năm 1999, do ông có 34 năm công tác. Toàn bộ số tiền mua nhà này là 613.440.000 đồng, do ông vay của bà Nguyễn Thị Hòa (vợ cũ của ông) 399.000.000 đồng và còn lại là tiền của ông. Nhà đã được cấp sổ đỏ đứng tên ông.

    Về nợ chung: không có.

    Về nợ riêng: khoản nợ 2,3 tỷ đồng tại Ngân hàng cổ phần Phương Nam do ông thế chấp nhà của ông tại số 16 ngõ 2 Giảng Võ. Theo quy định của Ngân hàng, lúc đó ông và bà Huệ có tên trong đăng ký kết hôn nên phải cùng ký vào hợp đồng vay thì Ngân hàng mới giải ngân, nhưng đây là nợ riêng của ông, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Bị đơn là bà Trịnh Thị Huệ trình bày:

    Sau khi kết hôn với ông Hiên vào năm 2000, ông bà sống tại số 1 ngõ Hồ Cây Sữa, Khâm Thiên, Hà Nội) sau đó chuyển nhiều nơi, gần nhất là chuyển về số 10 A4 ngõ 2 Giảng Võ, Cát Linh, Hà Nội. Tháng 3/2006, do ông bà có mâu thuẫn sâu sắc nên bà đã chuyển về Hải Phòng là nơi bà Huệ ở trước khi lấy ông Hiên.

    Về con chung: không có.

    Về động sản: có 02 giương đôi, 02 tủ gỗ, 02 bộ bàn ghế, 04 điều hòa nhiệt độ loại 9.000 BTU, 05 bình nóng lạnh và 01 xe ôtô Matiz biển kiểm soát 16H-3807 đăng ký tên bà, khi mua là 10.000 USD. Bà Huệ xác định những tài sản trên là tài sản chung của hai vợ chồng. Khi ly hôn bà đề nghị giải quyết theo pháp luật.

    Về bất động sản:

    1. Nhà số 1 ngõ Hồ Cây Sữa, Khâm Thiên, Hà Nội: có nguồn gốc là của ông Hiên, sổ đỏ đứng tên ông Hiên. Trước khi ông bà kết hôn nhà xây 04 tầng, sau kết hôn bà đã bỏ tiền ra xây tầng 5.  Nay ông bà ly hôn, bà yêu cầu được chia l/2 giá trị xây dựng tầng 5.

    2. Nhà đất tại số 27 lô 2A Trung Yên, Cầu Giấy, Hà Nội:

    Nhà mua năm 2001, vì vợ chồng thống nhất mua để bán nên hợp đồng mua nhà này đứng tên một mình ông Hiên. Ông Hiên trực tiếp nộp tiền đặt cọc để mua nhà là 45.000.000 đồng, bao gồm tiền của bà Huệ đưa cho ông Hiên gồm 03 cây vàng tương đương 15.000.000 đồng và đi vay 30.000.000 đồng. Tháng 1/2002 ông Hiên chuyển tên hợp đồng sang chị Trần Thị Trang Nhung (con riêng ông Hiên), tổng số tiền mua là 1.623.253.000 đồng, sổ đỏ đứng tên chị Nhung, bà biết và hoàn toàn nhất trí. Năm 2003, bà vay của bà Hoàng Thị Hán 40.000USD để hoàn thiện nhà, sau này đã lấy tiền bán nhà để trả nợ bà Hán. Nhà xây xong năm 2004, chị Nhung đã bán cho người khác được 4.400.000.000 đồng, lãi khoảng 2.200.000.000đồng, ông Hiên quản lý toàn bộ số tiền bán nhà, đã chi 1.400.000.000 đồng trong số tiền lãi để mua nhà số 10A4 Giảng Võ, còn lại ăn tiêu hết. Bà yêu cầu được chia số tiền lãi bán nhà.

    3. Nhà đất tại số 16 (số cũ là 10A4) ngõ 2, Giảng Võ, Cát Linh, Hà Nội:

    Tiêu chuẩn mua nhà này là của ông Hiên được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội duyệt bán từ năm 1999, trước khí ông bà kết hôn. Khi Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội duyệt bán thì ông Hiên không có tiền. Năm 2001, ông bà phải đi vay 100.000.000 đồng để đặt cọc mua nhà này. Trong số tiền này, bà góp 1.300 Bảng Anh tương đương 30.000.000 đồng, khi đưa tiền cho ông Hiên, không có giấy tờ gì. Tổng số tiền mua nhà là 613.000.000 đồng, đều do hai vợ chồng đi vay. Khi nhận bàn giao nhà xây thô, ông bà phải bỏ ra 800.000.000 đồng để hoàn thiện nhà, số tiền này lấy từ tiền lãi bán nhà 27 lô 2A, Trung Yên. ông Hiên làm sổ đỏ đúng tên một mình ông Hiên, bà không biết. Năm 2004, khi ông Hiên thế chấp sổ đỏ nhà 16 ngõ Giảng Võ cho Ngân hàng ở phố Dã Tượng, Hà Nội để vay 1,3 tỷ đồng, do Ngân hàng yêu cầu bà (với tư cách là vợ ông Hiên) phải ký vào hợp đồng vay, bà mới biết sổ đỏ mang tên một mình ông Hiên. Bà xác định ngôi nhà này là tài sản chung vợ chồng và đề nghị chia đôi bằng hiện vật hoặc bằng giá trị. Do mâu thuẫn vợ chồng nên đến tháng 10/2006 và tháng 3/2007 bà mới làm đơn gửi Sở Tài nguyên môi trường và nhà đất Hà Nội đề nghị bổ sung tên bà vào Giấy chứng nhận quyền sứ dụng đất nhưng chưa có kết quả.

    4. Nhà ở tại P501- Yên Ninh, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội: ông bà mua căn nhà này vào ngày 25/12/2002 với giá 1.450.000.000 đồng. Số tiền này do ông bà thế chấp nhà số 16, ngõ 2 Giảng Võ để vay 1,3 tỷ đồng của Ngân hàng tại số 4 Dã Tượng. Giấy tờ mua nhả đứng tên ông Hiên, sổ đỏ đứng tên cháu Thành. Khi nộp tiền công ty chỉ thu 600.000.000 đồng, số tiền còn lại (850.000.000 đồng) cho nợ, đến khi cháu Thành bán nhà được 2,3 tỷ đồng đã trả. Bà yêu cầu được chia số tiền lãi bán nhà này là 800.000.000 đồng.

    5. Phòng 405 nhà 50 Châu Long, Hà Nội:

    Nhà này đã được cấp sổ đỏ đứng tên vợ chồng anh Thành (con riêng của ông Hiên). Ông bà đã cho vợ chồng anh Thành 100.000.000 đồng để nộp tiền mua nhà; nay bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về nhà này nữa.

    Về nợ: ngày 03/10/2005, ông Hiên ép bà đến Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam vay 2,3 tỷ đồng trên danh nghĩa góp cổ phần vào Công ty Xây dựng Phát triển nhà 41; sau đó, ông Hiên rút vốn ra để mua 02 lô đất dự án tại Việt Hưng; bà xác định đây là khoản nợ riêng của ông Hiên vì thực chất ông Hiên quản lý sử dụng tất cả số tiền trên.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

    1. Chị Trần Thị Trang Nhung và anh Lê Trung Kiên trình bày:

    Ngày 18/01/2002 chị ký hợp đồng mua nhà 27 lô 2A Trung Yên với Công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị nhà xây thô 03 tầng diện tích 99,6m2 đất với giá 1.623.253.000 đồng. Chị nộp tiền cho Công ty toàn bộ số tiền mua nhà làm nhiều lần. Nguồn gốc tiền mua nhà này của mẹ chị là bà Nguyễn Thị Hòa đưa cho chị 500.000.000 đồng (bà Hòa bán nhà ở 43 ngõ 39 tập thể Hào Nam được 889.000.000 đồng) còn lại là tiền của vợ chồng chị đi vay bạn bè, anh em người thân. Anh chị khẳng định toàn bộ số tiền mua nhà Trung Yên là của anh chị không liên quan gì đến ông Hiên, bà Huệ. Sau khi nộp tiền, ngày 20/6/2004, Công ty bàn giao nhà cho chị theo biên bản bàn giao số 424 ngày 20/6/2004. Ngày 13/l0/2004, Công ty và chị đã ký biên bản thanh lý hợp đồng số 361. Ngày 16/11/2004, Uỷ ban nhân dân quận Cầu Giấy đã cấp sổ đỏ nhà 27 lô 2A Trung Yên đứng tên vợ chồng chị. Ngày 01/12/2004, anh chị đã bán ngôi nhà trên cho chị Lê Thúy Liên. Việc mua bán có lập hợp đồng mua bán tại Phòng Công chứng nhà nước số 3, hai bên đã trả tiền và trao nhà không có thắc mắc khiếu kiện gì. Anh chị khẳng định nhà 27 lô 2A Trung Yên thuộc quyền sở hữu của anh chị, không liên quan gì đến ông Hiên, bà Huệ.

    2. Anh Trần Trí Thành và chị Nguyễn Thị Mai Hương trình bày:

    Về nhà ở tại P501, Yên Ninh, Trúc Bạch, Ba Đình. Ngày 25/12/2002 anh Thành ký hợp đồng mua nhà số 439 với Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Ba Đình để mua căn hộ nêu trên với giá 1.486.300.000 đồng. Anh là người trực tiếp nộp tiền và nộp nhiều lần. Ngày 27/5/2004, anh chị vay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 400.000.000 đồng, số tiền còn lại vay bạn bè, anh chị em, không có liên quan gì đến ông Hiên, bà Huệ. Ngày 20/1/2006, Ủy ban nhân dân quận Ba Đình đã cấp sổ đỏ đứng tên anh. Ngày 26/01/2006, anh chị đã bán cho bà Nguyễn Thúy Hoa với giá 2.300.000.000 đồng, bên bán và bên mua không còn tranh chấp gì.

    Về nhà ở tại P405 Châu Long, Trúc Bạch, Ba Đình: đây là căn hộ được mua theo tiêu chuẩn của vợ chồng anh do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt với giá 90.000.000 đồng. Đây là tài sản riêng của anh chị, không liên quan gì đến ông Hiên, bà Huệ.

    3. Bà Nguyễn Thị Hòa (vợ cũ của ông Hiên) trình bày:

    Bà và ông Hiên kết hôn năm 1976, năm 1980 thì ly hôn. Ông bà có hai con chung là Trần Thị Trang Nhung và Trần Việt Phương.

    Trong thời gian chung sống với ông Hiên, bà ở tại nhà số 1 ngõ Hồ Cây Sữa, Khâm Thiên, Hà Nội của mẹ ông Hiên. Ngày 06/8/2003, bà đã bán nhà tại 43 ngõ 39 Hào Nam, ô Chợ Dừa được 899.000.000 đồng và bà đưa chị Nhung 500.000.000 đồng để mua nhà ở Trung Yên. Số tiền còn lại ông Hiên vay để mua nhà ở Giảng Võ. Hiện bà chưa có yêu cầu đòi ông Hiên số tiền này.

    4. Chị Trần Thị Hương Giang trình bày:

    Nhà ở Giảng Võ là do bố chị mua và hai bố con đã ở nhà này từ khi bàn giao đến nay. Bà Huệ không ở và không có liên quan gì đến nhà này.

    5. Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam: xác định ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ có ký hợp đồng vay số tiền 2.300.000.000 đồng với thời hạn vay 12 tháng, từ 30/10/2005 đến 03/10/2006, tài sản thế chấp là nhà số 16 ngõ 2 Giảng Võ, Cát Linh. Hiện khoản vay còn nợ gốc 820.000.000 đồng cộng lãi phát sinh. Ngân hàng không yêu cầu giải quyết trong vụ án ly hôn này.

    Tại bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007, Tòa án nhân dân quận Đống Đa quyết định tóm tắt như sau:

    1. Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa: ông Trần Hiên và và Trịnh Thị Huệ

    2. Về tài sản:

    - Chia cho ông Hiên được sở hữu: 01 giường gỗ trị giá 1.000.000 đồng; 05 bình nóng lạnh trị giá 5.000.000 đồng, 01 tủ gỗ hai buồng cánh kính đựng sách giá 500.000đ, 01 ô tô Matiz giá 80.000.000 đồng tổng cộng 86.000.000 đông.

    - Chia cho bà Huệ được sở hữu: 01 giường gỗ kiểu Đức trị giá 2.000.000 đồng, 01 tủ gỗ hai buồng cánh gỗ giá 500.000 đồng, tổng cộng 2. 500. 000 đồng. Buộc ông Hiên phải thanh toán trên chênh lệch tài sản cho bà Huệ 43.000.000 đồng.

    - Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hiên sau khi ly hôn là bà Huệ được sở hữu 01 bộ bàn ghế salon da nỉ.

    - Bác yêu cầu đòi chia 04 điều hòa nhiệt độ, bộ bàn ghế gỗ trắc của bà Huệ.

    3. Về nhà ở: bác các yêu cầu khác của và Huệ về việc:

    Đòi chia giá trị xây dựng tầng 5 nhà số 6 (số 1 cũ) ngõ Hồ Cây Sữa Khâm Trên, Đống Đa, Hà Nội

    - Đòi chia nhà số 16 ngõ 2 Giảng Võ, Cát Linh. Đống Đa.

    - Đòi chia lãi từ việc bán nhà 27 Lô 2A khu đô thị mới Trung Yên, Cầu Giấy, Hà Nội và bán căn hộ P501, 18 Yên Ninh, Ba Đình.

    Ghi nhận sự tự nguyện của bà Huệ, anh Thành và chị Hương không yêu cầu Tòa án giải quyết về nhà tại P405- 50 Châu Long, Ba Đình Hà Nội.

    4. Về nợ: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hiên, bà Huệ và Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam không yêu cầu Tòa án gỉai quyết về khoản nợ nên Tòa không xét.

    Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

    Ngày 31/12/2007, ông Trần Hiên có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên với nội dung: về tài sản, không nhất trí với quyết định của Tòa án ở những điểm sau:

    Chiếc xe oto Matiz, Tòa án xác định đây là tài sản chung nhưng đây là tài sản riêng của ông vì ông đã trả hết l0.000USD cho người thân của bà Huệ và trực tiếp đưa cho bà Huệ;

    - 05 chiếc bình nóng lạnh, 2giường, tủ đều là tài sản riêng của ông vì bà Huệ không làm ăn chung, không có tiền chung, nên không tạo dựng được bất kỳ một tài sản chung nào.

    Ngày 02/01/2008, bà Huệ kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm vì đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà về tài sản .

    Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đoàn Trọng Bằng là người đại diện theo ủy quyền của bà Huệ giải quyết về tài sản trong vụ án ly hôn và ông Hiên đều rút yêu cầu kháng cáo về tải sản là động sản.

    Tại bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: sửa bản án sơ thẩm về án phí; giữ nguyên các phần khác của bản án sơ thẩm.

    Sau khi có bản án phúc thẩm, ngày 18/4/2008 và ngày 24/7/2008 bà Trịnh Thị Huệ có đơn khiếu nại yêu cầu được xem xét lại việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đối với nhà đất tại số 16 ngõ 2, Giảng Võ, Cát Linh, Hà Nội và nhà 27 lô 2A Trung Yên, Cầu Giấy, Hà Nội; bà cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn xin hoãn phiên tòa của bà là vi phạm tố tụng.

    Tại quyết định kháng nghị số115/KN-HNGĐ ngày 01/4/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Nội; đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy về phần chia tài sản của bản án phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 86/2007/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Đống Đa để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị số115/KN-HNGĐ ngày 01/4/2009 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    Tại Công văn số 35/TDS ngày 18/8/2009, Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã đính chính phần Quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm của... Quyết định Giám đốc thẩm thành: . . . Hủy một phần về tài sản của Bán án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm . . .

    Sau khi xét xử giám đốc thẩm, ông Hiên có nhiều đơn khiếu nại đề nghị được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm vì Quyết định giám đốc thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sai về nội dung. Ông cho rằng: quyết định giám đốc thẩm của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm cả phần tình cảm mà không ai khiếu nại, vi phạm nghiêm trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự; sau đó lại ra quyết định đính chính là vi phạm khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xét xử khách quan và đúng pháp luật.

    Tại Quyết định số189/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 04/11/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, hủy phần giải quyết về chia tài sản của bản án bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    1. Về tố tụng:

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án từ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. ..". Tại Công văn số 35/TDC ngày 18/8/2009, Hội đồng Giám đốc thẩm Tòa Dân sự đã đính chính phần Quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thâm... thành: ... Hủy một phần về tài sản của Bán án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm...tại phần Quyết định Giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là trái với quy định tại Khoản 1 Điều 240 BLTTDS 2004 và điểm 12 Mục III Nghị quyết số02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này là có căn cứ.

    2. Về nội dung:

    Ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ kết hôn (hợp pháp) vào ngày 15-11-2000. Trước đó, hai bên đều đã có vợ, chồng, có con riêng và đã ly hôn. Quá trình chung sống, hai người phát sinh mâu thuẫn, nên năm 2007, ông Hiên xin ly hôn. Khi ly hôn, các bên có tranh chấp về tài sản như phần nội dung đã trình bày trên và đã được giải quyết tại bản án phúc thẩm sô19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sau khi xét xử phúc thẩm, các bên không khiếu nại về việc giải quyết hôn nhân và động sản. Đối với khiếu nại của bà Huệ và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhận thấy như sau:

    Đối với nhà số 27, lô 2A khu đô thị mới Trung Yên, Cầu Giấy, Hà Nội (gọi tắt là nhà số 27 Trung Yên)

    Căn cứ vào hợp đồng số459/HD-DATY ngày 18/01/2002, Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị thuộc Sở xây dựng Hà Nội ký hợp đồng với ông Hiên và con gái là chị Trần Thị Trang Nhung, căn cứ vào đơn gửi Giám đốc Công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị ngày 14/10/2004  của ông Hiên, có căn cứ xác định ông Hiên và con gái cùng đứng tên mua căn nhà nêu trên, trong đó chị Nhung đóng góp tiền mua nhà l.544.463.000 đồng tương đương 91% tổng số tiền mua nhà, ông hiên đóng góp 145.000.000 đồng tương đương 9%; có xác nhận của bà Huệ là sự việc nêu trên là đúng, chưa có căn cứ xác định ông Hiên đã chuyển quyền sở hữu cho chị Nhung, mà chỉ thể hiện ông Hiên đồng ý để chị Nhung đứng tên sở hữu căn nhà. Số tiền ông Hiên đóng góp mua căn nhà trên phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Hiên và bà Huệ, nên được xác định là tài sản chung của vợ chồng nếu ông Hiên không chứng minh được số tiền đó là tài sản riêng. Do Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ nội dung trên nhưng đã bác yêu cầu của bà Huệ như nhận định tại quyết định giám đốc thẩm, nên quyết định giám đốc thẩm hủy phần này của bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, giao Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại là có căn cứ.

    Về nhà đất tại số 10A4, ngõ 2 Giảng Võ, Cát Linh, Hà Nội.

    Năm 1999 ông Hiên mới chỉ được đề nghị xét mua nhà, còn toàn bộ quá trình ký hợp đồng, đóng tiền, làm giấy tờ sở hữu căn nhà này đều thực hiện trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Hiên, bà Huệ đang tồn tại. Căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b, mục 3 Nghị quyết số02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 hướng dẫn về tài sản chung của vợ chồng, thì về nguyên tắc phải xác định căn nhà này là tài sản chung nếu ông Hiên không chứng minh được là tài sản riêng. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ tiền mua nhà là tiền chung hay tiền riêng và đóng góp của các bên như thế nào... mà chỉ căn cứ vào thời điểm ông Hiên được đề nghị mua căn nhà này vào năm 1999, là thời điểm trước khi ông Hiên kết hôn với bà Huệ và việc một mình ông Hiên đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất để xác định nhà số 16, ngõ 2 Giảng Võ là tài sản riêng của ông Hiên như nhận định của quyết định giám đốc thẩm, là chưa đủ cơ sở. Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm đã quyết định hủy phần này của bản án sơ thẩm và phúc thẩm và giao cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại là có căn cứ.

    Như vậy, phần nhận định của quyết định giám đốc thẩm hủy phần chia tài sản chung của vợ chồng trong vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa ông Hiên và bà Huệ đối với các nhà đất nêu trên là có căn cứ, nhưng phần quyết định lại quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm, sau đó lại đính chính phần quyết định (thực chất là sửa lại quyết định) là không đúng quy định tại Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đối với quyết định chia tài sản chung của vợ chồng giữa ông Trần Hiên và bà Trịnh Thị Huệ;

    2 . Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     

     
    6619 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận