Số hiệu
|
24/2007/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"
|
Ngày ban hành
|
10/07/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 10 tháng 7 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa:
Nguyên đơn: Ông Trần Minh Hoàng sinh năm 1941; trú tại nhà số 42 DT 745 khu phố Chợ, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Trọng sinh năm 1941; trú tại nhà số 2/1 Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Văn Hiệp sinh năm 1942, hiện đang định cư tại Cộng hòa Liên bang Đức. Ông Hiệp ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Bé sinh năm 1952; trú tại nhà số 52 khu phố Chợ, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương tham gia tố tụng (giấy uỷ quyền ngày 20-01-2003).
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện ngày 02-7-2002 và các lời khai tại Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Minh Hoàng trình bày như sau:
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhưng để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất.
Năm 1985 cụ Hai Hoanh đứng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên.
Năm 1987 ông cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn Lái Thiêu và cụ Hai Hoanh cũng chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, nên toàn bộ nhà và đất tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu được giao cho ông Nguyễn Văn Trọng (là con cụ Hai Hoanh và là em ruột của ông) quản lý, sử dụng đến nay.
Ngày 08-12-1988 cụ Hai Hoanh chết nhưng không để lại di chúc.
Năm 2001 giữa bà Nguyễn Thị Tám (bà Tám là con cố Dành, đồng thời là chị em ruột của cụ Hai Hoanh) với ông Trọng có tranh chấp đối với diện tích đất 700m2 nói trên.
Tại Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám về tranh chấp diện tích đất 700m2 nói trên; công nhận diện tích đất 5248,55m2 (trong đó có phần đất cố Dành để lại và phần đất mà cụ Hai Hoanh đã mua của ông Lưu Văn Tư) cho các con cụ Hai Hoanh.
Bà Tám khiếu nại quyết định nêu trên.
Tại Quyết định số1258/QĐ-CT ngày 11-4-2003, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám; công nhận Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương là đúng pháp luật.
Ông xác định toàn bộ diện tích đất 5248,55m2 toạ lạc tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương do ông Trọng đang quản lý, sử dụng là di sản thừa kế của cụ Hai Hoanh và đề nghị phân chia di sản thừa kế của cụ Hai Hoanh theo pháp luật. Ông đồng ý trích chia cho ông Trọng phần công sức bằng 10% giá trị quyền sử dụng đất.
Ông Trọng trình bày như sau: Năm 1985 ông về sống tại nhà và đất có nguồn gốc của cụ Hai Hoanh tạo lập. Quá trình quản lý, sử dụng đất ông là người nộp thuế đất. Trước khi chết, cụ Hai Hoanh có lập di chúc là “Tờ thừa kế” đề ngày 08-10-1988 với nội dung để lại toàn bộ nhà và đất nêu trên cho ông được sở hữu, sử dụng; do đó, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng.
Ông Huỳnh Văn Hiệp (là con của cụ Hai Hoanh và là em ruột của ông Hoàng, ông Trọng) nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng; cụ thể:
Xác định toàn bộ diện tích đất 5248,55m2 toạ lạc tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương do ông Trọng đang quản lý, sử dụng là di sản thừa kế của cụ Hai Hoanh; đề nghị phân chia di sản thừa kế của cụ Hai Hoanh theo pháp luật; đồng ý trích chia cho ông Trọng phần công sức bằng 10% giá trị quyền sử dụng đất.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số17/2005/DS-ST ngày 12-9-2005, Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu của ông Trần Minh Hoàng, ông Huỳnh Văn Hiệp.
2. Di sản của bà Nguyễn Thị Hai Hoanh để lại là quyền sử dụng 5174,8m2 (trừ HLBVĐB 997,3m2 còn: 4177,3m2) toạ lạc tại 2/1 khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An được phân chia như sau:
a. Chia cho ông Hoàng 1253,2m2 (đã trừ 337,6m2 HLBVĐB) trị giá 1.879.600.000 đồng.
Đất được chia nằm ở hướng Tây (giáp nhà văn hoá Lái Thiêu), vị trí III theo sơ đồ.
b. Chia cho ông Hiệp 1253,2m2 (đã trừ 234,1m2 HLBVĐB) trị giá 1.879.600.000 đồng. Đất chia nằm ở giữa, vị trí II theo sơ đồ.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hiệp cho ông Nguyễn Văn Bé 1253,2m2 đất được chia ở trên.
c. Chia cho ông Trọng 1670,9m2 (đã trừ 288,3m2 HLBVĐB) trị giá 2.506.350.000 đồng. Đất chia nằm ở hướng Đông, vị trí I theo sơ đồ.
3. Ông Hoàng, ông Bé được sở hữu toàn bộ cây lâu năm, tài sản trên đất được chia (trừ cây mai, cây phát tài) sau khi bồi thường cho ông Trọng:
- Ông Hoàng bồi thường: 15.324.600 đồng.
- Ông Bé bồi thường 10.275.000 đồng.
4. Ông Trọng phải di dời số cây mai, cây phát tài trên đất chia cho ông Hoàng, ông Bé về đất của ông Trọng.
5. Ông Hoàng, ông Bé, ông Trọng phải có trách nhiệm đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí đo đạc và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 22-9-2005 ông Nguyễn Văn Trọng kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 472/2005/DSPT ngày 12-12-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Sửa án sơ thẩm.
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh Hoàng, Huỳnh Văn Hiệp.
Công nhận “Tờ thừa kế” đề ngày 04-10-1988 của bà Nguyễn Thị Hai Hoanh là hợp pháp.
Ông Nguyễn Văn Trọng được hưởng di sản của bà Nguyễn Thị Hai Hoanh (chết ngày 08-12-1988) là 5248,55m2 đất vườn tọa lạc tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Ông Trọng có trách nhiệm đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí, chi phí đo đạc theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Trần Minh Hoàng, ông Nguyễn Văn Bé (là người đại diện cho ông Hiệp) khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên với nội dung:
- Di chúc đề ngày 08-10-1988 đứng tên cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh do ông Nguyễn Văn Trọng xuất trình là giả mạo cho nên việc Tòa án cấp phúc thẩm công nhận di chúc hợp pháp là không đúng pháp luật.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã công nhận diện tích đất 5248,55m2 có tranh chấp thuộc quyền sử dụng của các con cụ Hai Hoanh, vì vậy Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn xin chia di sản thừa kế của các ông là không đúng pháp luật.
Tại Quyết định số63/2007/KN-DS ngày 04-05-2007, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 472/2005/DSPT ngày 12-12-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 472/2005/DSPT ngày 12-12-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 17/2005/DSST ngày 12-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định:
Nguồn gốc diện tích đất 5248,55m2 có tranh chấp tọa lạc tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương gồm hai phần:
- Phần thứ nhất: năm 1976, cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh cùng con là ông Trần Minh Hoàng chuyển về sống và dựng nhà trên diện tích đất 700m2 có nguồn gốc của cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Hai Hoanh) tạo lập.
- Phần thứ hai: năm 1977, cụ Hai Hoanh đứng tên mua diện tích đất của ông Lưu Văn Tư có vị trí liền kề với phần nhà, đất nêu trên.
Sau khi mua đất, cụ Hai Hoanh cùng ông Hoàng trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Năm 1985, cụ Hai Hoanh đứng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất.
Năm 1987, ông Hoàng cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn Lái Thiêu và cụ Hai Hoanh cũng chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, nên toàn bộ nhà, đất tại khu phố Đông Nhì do ông Nguyễn Văn Trọng (là con cụ Hai Hoanh, đồng thời là anh em ruột của ông Hoàng) quản lý, sử dụng đến nay.
Ngày 08-12-1988, cụ Hai Hoanh chết. Ông Hoàng, ông Huỳnh Văn Hiệp cho rằng cụ Hai Hoanh không để lại di chúc định đoạt tài sản, còn ông Trọng cho rằng trước khi chết, cụ Hai Hoanh lập di chúc là “Tờ thừa kế” đề ngày 08-10-1988 để lại toàn bộ nhà, đất nêu trên cho ông sở hữu, sử dụng.
Năm 2001, giữa bà Nguyễn Thị Tám (bà Tám là con cố Dành, đồng thời là chị em ruột của cụ Hai Hoanh) với ông Trọng có tranh chấp đối với diện tích đất 700m2 nguồn gốc của cố Dành.
Tại Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám về tranh chấp diện tích đất 700m2 có nguồn gốc của cố Dành; công nhận diện tích đất 5248,55m2, trong đó có phần đất cố Dành để lại và phần đất mà cụ Hai Hoanh đã mua của ông Lưu Văn Tư cho các con cụ Hai Hoanh.
Bà Tám khiếu nại Quyết định nêu trên.
Tại Quyết định số1258/QĐ-CT ngày 11-4-2003, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám; công nhận Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương là đúng pháp luật.
Như vậy, Quyết định giải quyết tranh chấp đất giữa bà Tám với ông Trọng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương đã có hiệu lực pháp luật. Theo nội dung của quyết định này thì toàn bộ diện tích đất 5248,55m2 có tranh chấp thuộc quyền sử dụng chung của các con cụ Hai Hoanh là các ông Hoàng, Trọng, Hiệp và diện tích đất nêu trên không còn là tài sản thừa kế của cụ Hai Hoanh. Trong trường hợp này, nếu có đủ căn cứ pháp luật để xác định “Tờ thừa kế” ngày 08-10-1988 đề tên cụ Hai Hoanh do ông Trọng xuất trình là do chính cụ Hai Hoanh lập thì cũng không thể công nhận tính hợp pháp của di chúc (trong khi đó, “Tờ thừa kế” ngày 08-10-1988 đề tên cụ Hai Hoanh lại do chính ông Trọng viết, còn hai người ký tên với tư cách nhân chứng lại có nhiều lời khai mâu thuẫn về thời điểm lập và ký xác nhận di chúc).
Căn cứ vào Quyết định đã có hiệu lực pháp luật số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương thì Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm thụ lý, giải quyết vụ án theo quan hệ pháp luật về thừa kế là không đúng và việc Toà án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất 5248,55m2 đang có tranh chấp là di sản thừa kế của cụ Hai Hoanh, công nhận “Tờ thừa kế” nêu trên là di chúc hợp pháp của cụ Hai Hoanh, từ đó quyết định để ông Trọng được thừa kế theo di chúc là không có căn cứ và không đúng pháp luật.
Tuy nhiên, Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001 giải quyết tranh chấp đất giữa bà Tám với ông Trọng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương có những nội dung không chính xác, như: giữa bà Tám với ông Trọng chỉ tranh chấp diện tích đất 700m2 có nguồn gốc của cố Dành, nhưng Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương lại công nhận toàn bộ diện tích đất 5248,55m2 thuộc quyền sử dụng chung của các con cụ Hai Hoanh; Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương chưa xem xét, giải quyết quan hệ pháp luật về thừa kế mà đã công nhận quyền sử dụng đất cho các con của cụ Hai Hoanh đối với diện tích đất 5248,55m2 có nguồn gốc của cố Dành và của cụ Hai Hoanh tạo lập. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần trao đổi với Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương về Quyết định nêu trên để việc giải quyết vụ án được triệt để và đúng pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 472/2005/DSPT ngày 12-12-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số17/2005/DS-ST ngày 12-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nguồn gốc diện tích đất 5248,55m2 có tranh chấp tại khu phố Đông Nhì, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương (hiện do ông Nguyễn Văn Trọng đang quản lý, sử dụng) gồm hai phần:
- Phần thứ nhất: diện tích đất 700m2 có nguồn gốc của cố Nguyễn Thị Dành (mẹ cụ Hai Hoanh). Phần đất này, năm 1976 cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh cùng con là ông Trần Minh Hoàng đã chuyển về sinh sống và xây dựng nhà để ở.
- Phần thứ hai: diện tích đất hơn 4.500m2 có vị trí liền kề với phần nhà và đất nêu trên do cụ Hai Hoanh mua của ông Lưu Văn Tư năm 1977.
Sau khi mua đất, cụ Hai Hoanh cùng ông Hoàng trực tiếp quản lý, sử dụng hai phần đất trên. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đứng tên đăng ký, kê khai toàn bộ hai phần đất này với tổng diện tích 5.000m2, khi đó không có ai (trong đó có các con của cố Dành) tranh chấp. Như vậy, có đủ cơ sở xác định toàn bộ diện tích đất nêu trên thuộc quyền sử dụng của cụ Hai Hoanh.
Năm 1987 cụ Hai Hoanh chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, còn ông Hoàng cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn Lái Thiêu, nên toàn bộ nhà và đất tại khu phố Đông Nhì do ông Nguyễn Văn Trọng (là con cụ Hai Hoanh, đồng thời là em ruột của ông Hoàng) quản lý, sử dụng đến nay.
Sau khi cụ Hai Hoanh chết (ngày 08-12-1988) thì đến năm 2001 giữa bà Nguyễn Thị Tám (là em cụ Hai Hoanh) với ông Nguyễn Văn Trọng có tranh chấp đối với diện tích đất 700m2 có nguồn gốc của cố Dành để lại.
Tại Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám, đồng thời công nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất 5248,55m2 cho các con cụ Hai Hoanh.
Bà Tám có đơn khiếu nại đối với Quyết định nêu trên và tại Quyết định số1258/QĐ-CT ngày 11-4-2003, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định bác đơn khiếu nại của bà Tám và công nhận Quyết định số764/QĐ-CT ngày 05-12-2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương là đúng pháp luật.
Bằng các quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai, Nhà nước đã công nhận các con của cụ Hai Hoanh (là ông Trọng, ông Hoàng và ông Hiệp) có quyền sử dụng chung, hợp pháp đối với toàn bộ diện tích đất có tranh chấp, nên quyền sử dụng diện tích đất nêu trên không còn của cụ Hai Hoanh và cũng không phải là di sản của cụ Hai Hoanh để chia thừa kế.
Sau khi có quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương thì các con của cụ Hai Hoanh (là ông Trọng, ông Hoàng và ông Hiệp) không khiếu nại và không có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào thu hồi hoặc bãi bỏ các quyết định nêu trên. Trong trường hợp này phải xác định toàn bộ diện tích đất có tranh chấp là tài sản chung của ông Hoàng, ông Trọng và ông Hiệp mới đúng. Ông Hoàng khởi kiện cho rằng diện tích đất có tranh chấp là tài sản thừa kế của cụ Hai Hoanh nên yêu cầu chia thừa kế và Toà án các cấp xác nhận đây là tranh chấp về thừa kế tài sản là chưa đúng quan hệ pháp luật trong vụ án. Trong trường hợp này cần căn cứ vào Điều 169 Bộ luật tố tụng dân sự để thông báo cho ông Hoàng sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mới đúng.
Toà án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót của Toà án cấp sơ thẩm. Mặt khác Toà án cấp phúc thẩm xem xét không đầy đủ về tính pháp lý của “Tờ thừa kế” ngày 08-10-1988 đề tên cụ Hai Hoanh (do ông Trọng xuất trình) để cho rằng toàn bộ diện tích đất có tranh chấp thuộc quyền sử dụng của cụ Hai Hoanh và công nhận “Tờ thừa kế” nêu trên là di chúc hợp pháp của cụ Hai Hoanh, để quyết định ông Trọng được thừa kế toàn bộ diện tích đất có tranh chấp là không đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 472/2005/DSPT ngày 12-12-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số17/2005/DS-ST ngày 12-9-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương về vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Trần Minh Hoàng với bị đơn là ông Nguyễn Văn Trọng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Huỳnh Văn Hiệp.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Các Tòa án đã xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp: không phải là tranh chấp về thừa kế tài sản mà là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.