Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265200 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

    Số hiệu

    21/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản"

    Ngày ban hành

    10/07/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 10 tháng 7  năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án “thừa kế tài sản” giữa:

    Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Quang sinh năm 1937; trú tại nhà số 101 Hoàng Văn Thụ, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

    Bị đơn:

    1. Ông Nguyễn Văn Sang sinh năm 1931; trú tại nhà số 28 Lê Hồng Phong, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

    2. Ông Nguyễn Văn Đường sinh năm 1936; trú tại nhà số 03 Phạm Ngũ Lão, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

    3. Ông Nguyễn Văn Chánh sinh năm 1948; trú tại nhà số 09 Phạm Ngũ Lão, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Nguyễn Thị Thanh Minh sinh năm 1939; trú tại tổ 3, khu Cầu Xẻo, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

    2. Bà Nguyễn Thị Lộc (đã chết) do chị Lê Thị Thưởng sinh năm 1950; trú tại nhà số 97/3 khối phố 1, tổ 42, phường Thanh Xuân, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh làm đại diện cho những người thừa kế của bà Lộc.

    3. Ông Nguyễn Văn Lạc (đã chết) do vợ là bà Đỗ Thị Bạch Yến; trú tại khối phố 1, 32B khu Văn Hải, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai làm đại điện cho những người thừa kế của ông Lạc.

    4. Ông Nguyễn Văn Dư (đã chết) có các con, cháu gồm: anh Nguyễn Văn Nam, anh Nguyễn Văn Nhàn, chị Nguyễn Thị Kim Tuyết, chị Nguyễn Thị Kim Thanh, anh Nguyễn Văn Hoà (đã chết có vợ là chị Trần Thị Hồng Hoa đại diện cho các cháu Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Thị Hồng Vân).

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 24-8-2000 và các lời khai tại Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Quang trình bày:

    Cụ Nguyễn Văn Thú (chết năm 1963), có vợ là cụ Nguyễn Thị Niêm (chết năm 1987) đều không để lại di chúc, có tám người con chung là:

    1. Bà nguyễn Thị Lộc (chết năm 1995) có chồng là ông Lê Kim Khánh (chết năm 1996), có tám người con chung là các anh, chị: Lê Thị Thưởng, Lê Thị Kim Hoa, Lê Văn Tươi, Lê Văn Đức, Lê Thị Kim Hạnh, Lê Thị Kim Phúc, Lê Thị Thu Hà, Lê Thị Kim Lan.

    2. Ông Nguyễn Văn Dư (chết năm 1965) có vợ là bà Nguyễn Thị Chi, có năm người con chung là các anh, chị: Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Thị Kim Thanh, Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Thị Kim Tuyết, Nguyễn Văn Hoà (chết) có vợ là Trần Thị Hồng Hoa cung hai người con chung là Nguyễn Hoàng Đăng Khoa và Nguyễn Thị Hồng Vân.

    3. Ông Nguyễn Văn Sang.

    4. Ông Nguyễn Văn Lạc (chết năm 1998) có vợ là bà Đỗ Thị Bạch Yến, có chín người con chung là các anh, chị: Nguyễn Thị Kim Loan, Nguyễn Thị Kim Phương, Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Thị Bích Thuận, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thị út Hiền, Nguyễn Thị Kim Liên.

    5. Ông Nguyễn Văn Đường.

    6. Bà Nguyễn Thị Quang.

    7. Bà Nguyễn Thị Thanh Minh.

    8. Ông Nguyễn Văn Chánh.

    Tài sản chung của vợ chồng cụ Nguyễn Văn Thú và cụ Nguyễn Thị Niêm gồm có: Ngôi nhà 4 gian nằm trên thửa đất có diện tích 1.634,6m2 tại đường Phạm Ngũ Lão, tổ 1, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum (hiện ông Sang quản lý 1 gian, ông Đường cho con là chị Nguyễn Thị Tâm ở 1 gian, ông Chánh ở 1 gian còn 1 gian bà Lộc đã bán cho ông Phạm Văn Nguyên) và 288,1m2 đất tại 28 đường Lê Hồng Phong, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum (hiện ông Sang đang quản lý).

    Tháng 6-1996, các con của cụ Thú và cụ Niêm đã thoả thuận chia đất ở tại đường Phạm Ngũ Lão cho bà Nguyễn Thị Quang, chị Lê Thị Thưởng và anh Nguyễn Văn Nam mỗi người một lô có chiều ngang 4m giáp gara ông Vọng (thoả thuận không lập thành văn bản), nhưng bà Quang, chị Thưởng và anh Nam chưa nhận đất nên ông Đường, ông Sang, ông Chánh tiếp tục quản lý sử dụng phần đất đã phân chia. Khi bà Quang, anh Nam và chị Thưởng xin được nhận đất thì ông Đường, ông Sang, ông Chánh lại thay đổi ý kiến không đồng ý giao đất.

    Bà Quang yêu cầu chia thừa kế tại sản của cụ Thú, cụ Niêm theo pháp luật, bà xin nhận phần đất như đã thoả thuận năm 1996.

    Các bị đơn là ông Nguyễn Văn Sang, ông Nguyễn Văn Đường, ông Nguyễn Văn Chánh thống nhất khai: Về quan hệ huyết thống và nguồn gốc tài sản của cụ Thú và cụ Niêm như bà Quang khai là đúng. Tuy nhiên, diện tích 288,1m2 đất tại đường Lê Hồng Phong, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, ông Sang đã mua của cụ Niêm với giá 2 chỉ vàng và 150 kg thóc (do bà Nguyễn Thị Thanh Minh nhận). Việc mua bán chỉ nói miệng, sau đó có họp gia đình cụ Niêm đồng ý bán nên có lập “giấy chuyển quyền thừa kế sử dụng đất” và 1 “giấy uỷ quyền” do cụ Niêm điểm chỉ, ông Chánh, ông Đường, bà Quang, bà Minh cùng ký nên 288,1m2 đất tại 28 Lê Hồng Phong, không còn là di sản thừa kế của cha, mẹ (ngày 23-02-2001, ông Sang đã nộp tạm ứng án phí về yêu cầu phản tố). Các ông không đồng ý xác định 288,1m2 đất tại 28 Lê Hồng Phong là di sản thừa kế để chia, mà chỉ đồng ý chia cho bà Quang 1 lô đất có chiều 4 m đường Phạm Ngũ Lão.

    Bà Nguyễn Thị Thanh Minh thừa nhận lời khai của bà Quang là đúng và thừa nhận khi cụ Niêm bị bệnh, bà có nhận của ông Sang 1,8 chỉ vàng, 150 kg thóc và 55.000đ. Tuy nhiên bà khai rằng số tiền, vàng, thóc này là ông Sang đưa cho bà lấy tiền mua thuốc và chăm sóc cụ Niêm, mà không phải cụ Niêm bán đất tại Lê Hồng Phong cho ông Sang.

    Bà Nguyễn Thị Quang, chị Lê Thị Thưởng và anh Nguyễn Văn Nam thống nhất khai: Bà và các anh chị chỉ nghe bà Minh nói là ông Sang có đưa 1,8 chỉ vàng, 150 kg thóc và 55.000đ cho bà Minh để bà Minh bán lấy tiền mua thuốc và chăm sóc cụ Niêm chứ không nghe ai nói là cụ Niêm bán đất cho ông Sang.

    Chị Lê Thị Thưởng và Nguyễn Văn Nam yêu cầu chia thừa kế tài sản của cụ Thú, cụ Niêm theo pháp luật và xin được nhận bằng hiện vật.

    Bà Đỗ Thị Bạch Yến xin nhận 1 lô đất tại đường Phạm Ngũ Lão mà năm 1996 họp gia tộc đã chia cho chồng bà để bà cho con ở mà không yêu cầu chia di sản gì thêm.

    Tại bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 09-02-2001, Toà án nhân dân thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum quyết định:

    “Căn cứ khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự xử: Chấp nhận đơn kiện chia thừa kế theo pháp luật của bà Nguyễn Thị Quang, bà Lê Thị Thưởng và anh Nguyễn Văn Nam.

    - Căn cứ các điều 677,  678, 679, 680, 686 Bộ luật dân sự:

    + Bà Nguyễn Thị Quang được chia lô đất ở đường Lê Hồng Phong, thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    -  Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang dài 2,75m.

    -  Nam giáp đất nhà bà Nguyễn Thị Minh dài 29,5m.

    - Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 4,05m.

    -  Bắc giáp nhà ông Vũ Thanh Long dài 29m.

    Diện tích 93m2.

    + Bà Nguyễn Thị Thanh Minh được chia lô đất ở đường Lê Hồng Phong thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang dài 2,75m.

    - Nam giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang dài 27m.

    - Bắc giáp đất nhà bà Nguyễn Thị Quang dài 29,5m.

    -Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 4,05m.

    Diện tích là 93m2.

    + Bà Lê Thị Thưởng được chia lô đất ở hẻm đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp đất nhà anh Nam dài 18,5m.

    - Phía Nam giáp mương nước dài 6,35m.

    - Phía Tây giáp đất ông Chánh dài 21,6m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 6,4m.

    Diện tích là 123,6m2.

    + Anh Nguyễn Văn Nam được chi lô đất ở hẻm đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phương Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp nhà ông Thập dài 11,5m.

    - Phía Nam giáp mương nước dài 6,35m.

    - Phía Tây giáp đất nhà bà Thưởng dài 18,5m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 6,4m.

    Diện tích là 111,4m2.

    + Nguyễn Hoàng Đăng Khoa và Nguyễn Thị Hồng Vân được chia lô đất ở hẻm được Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum. Bà Trần Thị Hồng Hoa là người giám hộ nhận thay, có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp đất công ty lương thực tỉnh Kon Tum dài 7,2m.

    - Phía Nam giáp nhà các ông bà Trung, Vinh, Toàn, Thông, Hoàng, Hành dài 44m.

    - Phía Bắc giáp mương nước dài 47m.

    Diện tích đất là 236,7m.

    + Ông Nguyễn Văn Sang được chia 03 lô đất gồm:

    1. Lô ở đường Lê Hồng Phong thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp mương nước dài 16,3m.

    - Phía Nam giáp mương nước dài 13,8m.

    - Phía Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 9,7m.

    - Phía Bắc giáp nhà bà Minh dài 29m.

    Diện tích là 102m2.

    2. Lô đất ở đường Phạm Ngũ Lão (do anh Vàng sử dụng) thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng-Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp nhà ông Đường dài 11,8m.

    - Phía Nam giáp đường Phạm Ngũ Lão dài 5m.

    - Phía Tây giáp nhà ông Thức dài 8,5m.

    - Phía Bắc giáp mương nước dài 4,5m.

    Diện tích là 67m.

    3. Lô đất ở hẻm đườn Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp nhà ông Nguyên dài 30m

    - Phía Nam giáp mương nước dài 5m.

    - Phía Tây giáp đất bà Minh, bà Quang và đất nhà ông Sang dài 29m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Võ Chí Hùng dài 6m.

    Diện tích là 193m2.

    + Ông Nguyễn Văn Chánh được chia hai lô đất ở hẻm đường Phạm Ngũ Lão thuôc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    1. Số nhà 09 Phạm Ngũ Lão:

    - Phía Nam giáp mương nước dài 4m.

    - Phía Tây giáp nhà ông Nguyên dài 28m.

    - Phía Bắc giáp nhà ông Thu dài 4m.

    - Phía Đông giáp nhà anh Phong dài 26m.

    Diện tích là 108m2.

    2. Thuộc đường hẻm Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phương Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Nam giáp mương nước dài 13,8m.

    - Phía Tây giáp nhà anh Phong dài 25,3m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 14,9m.

    - Phía Đông giáp đất bà Thưởng dài 19,1m.

    Diện tích là 337,4m.

    + Anh Nguyễn Thanh Phong được chia lô đất số 07 hẻm đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Nam giáp mương nước dài 4,5 m.

    - Phía Tây giáp nhà ông Chánh dài 26m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 4,8m.

    - phía Đông giáp đất ông Chánh dài 25,3m.

    Diện tích là 69,6m2.

    + Ông Nguyễn Văn Đường được chia lô đất ở đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có vị trí như sau:

    - Phía Nam giáp đường Phạm Ngũ Lão dài 8,7m.

    - Phía Đông giáp đường hẻm Phạm Ngũ Lão dài 16,4m.

    - Phía Bắc giáp mương nước dài 9,1m.

    - Phía Tây giáp nhà anh Vàng dài 11,8m.

    Diện tích là 124m2.

    + Bà Nguyễn Thị Quang phải trả cho ông Nguyễn Văn Chánh số tiền chênh lệch là 44.068.800 đồng.

    - Bà Nguyễn Thị Thanh Minh phải trả cho bà Lê Thị Thưởng số tiền chênh lệch là 28.163.800 đồng.

    - Ông Nguyễn Văn Sang phải trả cho bà Lê Thị Thưởng số tiền chênh lệch là 24.524.600đ, trả cho ông Nguyễn Văn Chánh số tiền là 15.402.200 đồng và trả cho anh Nam số tiền chênh lệch là 23.851.000 đồng”.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

    Ngày 22-02-2001, ông Nguyễn Văn Sang kháng cáo với nội dung: lô đất tại số 28 Lê Hồng Phong là của ông mua của cụ Niêm nên không phải là di sản thừa kế để chia.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số06/DS-PT ngày 08-5-2001, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định: “Bác đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn Sang, y án sơ thẩm”.

    Ngày 08-6-2001, ông Nguyễn Văn Sang khiếu nại cho rằng khi mẹ ông còn sống đã làm giấy phân chia thừa kế cho ông được sử dụng lô đất tại số 28 Lê Hồng Phong có chữ ký của các anh, chị, em trong gia đình gồm: ông Nguyễn Văn Đường, bà Nguyễn Thị Quang, bà Nguyễn Thị Thanh Minh, ông Nguyễn Văn Chánh và điểm chỉ của cụ Niêm điểm chỉ, có xác nhận của chính quyền địa phương nhưng Toà án không xem xét giải quyết là gây thiệt hại đến quyền lợi của ông.

    Tại quyết định số193/KN-DS ngày 30-10-2001, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm trên và đề nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra xác minh làm rõ có hay không việc cụ Niêm chuyển nhượng đất cho ông Sang.

    Tại kết luận số260/KL-VKSNDTC-KSXXDS ngày 11-12-2001, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    Tại quyết định giám đốc thẩm số05/GĐT-DS ngày 16-01-2002, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định:

    “- Huỷ bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 09-02-2001 của Toà án nhân dân thị xã Kon Tum và bản án phúc thẩm số 06/DSPT ngày 08-5-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum;

    - Giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum điều tra xét xử theo thủ tục sơ thẩm”.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-8-2003, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định:

    “-Căn cứ vào khoản 1 Điều 10, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;

    Xử: Bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Sang về việc xin tách 01 lô đất có diện tích 288,1m2 ở đường Lê Hồng Phong thị xã Kon Tum, ông cho rằng đã mua của cụ Nguyễn Thị Niêm trước đây.

    - Chấp nhận đơn điện của bà Nguyễn Thị Quang xin chia thừa kế theo pháp luật.

    - Căn cứ các Điều 677, 678, 679, 680, và khoản 9, khoản 10 điều 686 Bộ luật dân sự, chia thừa kế theo pháp luật gồm các kỷ phần như sau:

    1. Bà Nguyễn Thị Quang được chia lô đất ở 28 Lê Hồng Phong, tổ 1 -phường Quyết Thắng - thị xã Kon Tum có diện tích là 93m2 trị giá 111.600.000 đ và có vị trí như sau: 

    - Phía Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 4,05m.

    - Phía Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang 2,7m.

    - Phía Nam giáp đất nhà bà Nguyễn Thị Minh dài 29,5m.

    - Phía Bắc giáp nhà ông Vũ Thanh Long dài 29m.

    2. Bà Nguyễn Thị Minh được chia lô đất ở 28 Lê Hồng Phong thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum có diện tích là 93m2 trị giá 111.600.000đ và có vị trí như sau:

    - Đông giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang dài 2,75m.

    - Nam giáp đất nhà ông Nguyễn Văn Sang dài 29m.

    - Bắc giáp đất nhà bà Nguyễn Thị Quang dài 29,5m.

    -Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 4,05m.

    Hai lô đất trên ông Nguyễn Văn Sang đang quản lý.

    3. Bà Lê Thị Thưởng được chia lô đất ở hẻm đường Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có diện tích là 123,6m2 có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp đất nhà anh Nam dài 18,5m.

    - Phía Nam giáp mương nước dài 6,35m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 6,4m.

    - Phía Tây giáp đất nhà ông Chánh dài 21,6m.

    4. Anh Nguyễn Văn Nam được chia lô đất ở đường Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có diện tích 111,4m2vị trí như sau:

    -  Phía Đông giáp nhà ông Thập dài 11,5m.

    - Phía Nam giáp mương nước dài 6,35m.

    - Phía Tây giáp đất nhà bà Thưởng dài 18,5m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 6,4m.

    5. Anh Nguyễn Hoàng Đăng Khoa và chị Nguyễn Thị Hồng Vân được chia lô đất ở đường Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum. Anh Nam là người uỷ quyền nhận thay có diện tích đất là 236,7m2, có vị trí như sau:

    - Phía Đông giáp đất công ty lương thực tỉnh Kon Tum dài 7,2m.

    - Phía Nam giáp nhà các ông bà Trung, Vinh, Toàn, Thông, Hoàng, Hành dài 44m.

    - Phía Bắc giáp mương nước dài 47m.

    6. Ông Nguyễn Văn Sang được chia 03 lô đất gồm:

    - 01 lô ở đường Lê Hồng Phong thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng - Kon Tum  có diện tích là 102 có vị trí như sau:

    + Phía Đông giáp mương nước dài 16,3m.

    + Phía Nam giáp mương nước dài 13,8m.

    + Phía Tây giáp đường Lê Hồng Phong dài 9,7m.

    + Phía Bắc giáp nhà bà Minh dài 29m.

    - 01 lô đất ở đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng, Kon Tum có diện tích là 67m2 có vị trí như sau:

    + Phía Đông giáp nhà ông Đường dài 11,8m.

    + Phía Nam giáp đường Phạm Ngũ Lão dài 5m.

    + Phía Tây giáp nhà ông Thức dài 8,5m.

    + Phía Bắc giáp mương nước dài 4,5m.

    - 01 lô đất ở hẻm đường Phạm Ngũ Lão thuộc tổ 1, phường Quyết Thắng, Kon Tum có diện tích là 193m2 vị trí như sau:

    + Phía Đông giáp nhà ông Nguyên dài 30m

    + Phía Nam giáp mương nước dài 5m.

    + Phía Tây giáp đất bà Minh dài 29m.

    + Phía Bắc giáp đất ông Võ Chí Hùng dài 6m.

    7. Ông Nguyễn Văn Chánh được chia hai lô đất ở hẻm Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có diện tích và vị trí như sau:

    - 01 lô đất ở Số nhà 09 Phạm Ngũ Lão có diện tích là 108m2 vị trí sau:

    + Phía Nam giáp mương nước dài 4m.

    + Phía Tây giáp nhà ông Nguyên dài 28m.

    + Phía Bắc giáp nhà ông Thu dài 4m.

    + Phía Đông giáp nhà anh Phong dài 26m.

    - 01 lô đất ở đường hẻm Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phương Quyết Thắng, Kon Tum có diện tích là 337m2 vị trí như sau:

    - Phía Nam giáp mương nước dài 13,8m.

    - Phía Tây giáp nhà anh Phong dài 25,3m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 14,9m.

    - Phía Đông giáp đất bà Thưởng dài 19,1m.

    8. Bà Đỗ Thị Bạch Yến được chia lô đất số 07 hẻm đường Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có diện tích là 69,6m2 có vị trí sau:

     - Phía Nam giáp mương nước dài 4,5 m.

    - Phía Tây giáp nhà ông Chánh dài 26m.

    - Phía Bắc giáp đất ông Vọng dài 4,8m.

    - Phía Đông giáp đất ông Chánh dài 25,3m

    9. Ông Nguyễn Văn Đường được chia lô đất ở Phạm Ngũ Lão, tổ 1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có diện tích là 121m2có vị trí sau:

     - Phía Nam giáp đường Phạm Ngũ Lão dài 8,7m.

    - Phía Đông giáp đường hẻm Phạm Ngũ Lão dài 16,4m.

    - Phía Bắc giáp mương nước dài 9,1m.

    - Phía Tây giáp nhà anh Vàng dài 11,8m.

    Những người phải thanh toán tiền chênh lệch tài sản:

    - Bà Nguyễn Thị Quang phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn Chánh số tiền chênh lệch là 45.736.000đ.

    - Bà Nguyễn Thị Minh phải thanh toán cho Bà Lê Thị Thưởng số tiền chênh lệch là 29.813.000đ.

    - Ông Nguyễn Văn Sang phải thanh toán cho bà Lê Thị Thưởng số tiền chênh lệch là 21.191.000đ và thanh toán cho anh Nguyễn Văn Nam số tiền chênh lệch là 22.184.000đ.

    Tổng cộng ông Sang thanh toán cho 03 kỷ phần là 55.445.000đ.

    Bà Nguyễn Thị Quang tự nguyện thanh toán cho ông Nguyễn Văn Sang 10.600.000đ”.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.      

    Ngày 21-8-2003, ông Nguyễn Văn Sang kháng cáo đề nghị xem xét lại diện tích đất tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, vì cho rằng lô đất này mẹ ông đã bán cho ông, giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất; Toà án cho rằng giấy này là bản Photocopy nên không chấp nhận yêu cầu của ông là gây thiệt hại đến quyền lợi của ông.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 07 ngày 02-4-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định “Giữ nguyên bản án sơ thẩm”.

    Ông Nguyễn Văn Sang có đơn khiếu nại cho rằng lô đất tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum cụ Lê Thị Niêm (mẹ ông) đã bán cho ông, có giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất (nay ông đã tìm được bản gốc). Lô đất này không có tài sản gắn liền với đất thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân, mà không thụôc thẩm quyền giải quyết của Toà án; Toà án xác định cả diện tích đất tại 28 Lê Hồng Phong là di sản của cụ Niêm, cụ Thú để chia thừa kế là không đúng.

    Tại quyết định số23/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 23-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-8-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum và bản án dân sự phúc thẩm số 07 ngày 02-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum xác minh, xét xử lại từ sơ thẩm theo quy định của pháp luật với nhận định:

    “Cụ Nguyễn Văn Thú (chết năm 1963) và vợ là cụ Lê Thị Niêm (chết ngày 11-10-1987) để lại hai khối tài sản: Một ngôi nhà cấp 4 xây dựng trên lô đất có diện tích 1.634,6m2 tại đường Phạm Ngũ Lão, tổ  1, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum và 288,1m2 tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum. Sau khi cụ Niêm chết, ngày 24-8-2000 bà Quang là một trong tám người con của hai cụ có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế cả hai khối tài sản trên theo pháp luật. Quá trình giải quyết tranh chấp ông sang cho rằng phần đất có diện tích 288,1m2 toạ lạc tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum là của ông vì ông đã mua lại của cụ Niêm ngày 20-11-1983 và ông đã xuất trình giấy chuyển quyền thừa kế sử dụng đất có nội dung: Đám đất trên là do tôi mua và tạo lập nên nay tôi đã già yếu nên tôi làm giấy này chuyển quyền thừa kế sử dụng đất cho con của tôi là Nguyễn Văn Sang nhưng là giấy phô tô nên Toà án không chấp nhận. Toà án hai cấp vận dụng các quy định của Bộ luật dân sự để chia thừa kế theo pháp luật cho các đồng thừa kế cả hai khối tài sản nêu trên.

    Đến nay, ông Sang đã tìm được bản gốc có công chứng tài liệu này; nên cần được xác định lại về mặt chứng cứ khối tài sản do hai cụ để lại khi chia thừa kế.

    Mặt khác, diện tích 288,1m2 đất tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum có nguồn gốc do hai cụ Thú và cụ Niêm để lại, nhưng tại biên bản làm việc ngày 30-01-2001 với Ủy ban nhân dân phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum thì Ủy ban nhân dân phường Quyết thắng xác nhận hai cụ Thú và Cụ Niêm chưa kê khai, chưa có các loại giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai (BL52), các đương sự khác đều thừa nhận do ông Sang quản lý và sử dụng từ trước, trên đất không có nhà, vật kiến trúc hay cây lâu năm. Do đó, theo quy định của Hiến pháp năm 1980 (đất đai thuộc sở hữu toàn dân); Luật đất đai năm 1987 và hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần II Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì: đối với trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1; 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân mới đúng quy định của pháp luật. Nhưng Toà án giải quyết cả phần diện tích đất tại 28 Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum là chưa phù hợp với các văn bản pháp lý đã viện dẫn trên”.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; huỷ án dân sự phúc thẩm số 07 ngày 02-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-8-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum; giao hồ sơ cho Toà án nhân tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Cụ Nguyễn Văn Thú (chết năm 1963) có vợ là cụ Nguyễn Thị Niêm (chết năm 1987) đều không để lại di chúc, hai cụ có tám người con chung là các ông, bà: Nguyễn Thị Lộc (chết năm 1995), Nguyễn Văn Dư (chết năm 1965) Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Văn Lạc (chết năm 1998), Nguyễn Văn Đường, Nguyễn Thị Quang, Nguyễn Thị Thanh Minh và Nguyễn Văn Chánh.

    Tài sản chung của vợ chồng cụ Thú và cụ Niêm gồm có: Ngôi nhà bốn gian trên thửa đất có diện tích 1.634,6m2 tại tổ 1 đường Phạm Ngũ Lão, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum và 288,1m2 đất (trên phần đất này không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và chưa ai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) tại 28 đường Lê Hồng Phong, phường Quyết Thắng, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

    Quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều thừa nhận căn nhà trên 1.634,6m2 tại tổ 1 đường Phạm Ngũ Lão, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum là tài sản chung của cụ Thú và cụ Niêm và là di sản cả hai cụ chưa chia; do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định 4 gian nhà trên thửa đất có diện tích 1.634,6m2 tại tổ 1 đường Phạm Ngũ Lão, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum là tài sản chung của cụ Thú và cụ Niêm. Do hai cụ chết không để lại di chúc nên chia thừa kế tài sản nêu trên của hai cụ cho những người được thừa kế là có căn cứ, đúng pháp luật.

    Đối với diện tích 288,1m2 đất tại 28 đường Lê Hồng Phong, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, tuy các đương sự đều thừa nhận do cụ Thú, cụ Niêm tạo lập, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông Sang cho rằng cụ Niêm đã bán cho ông với giá 2 chỉ vàng và 150 kg thóc nên ngày 20-11-1983 cụ Niêm đã lập “giấy chuyển quyền thừa kế sử dụng đất”, giấy trên có dấu vân tay của cụ Niêm, chữ ký của ông Đường, ông Chánh, bà Minh nên diện tích đất trên là của ông. Nguyên đơn không thừa nhận lời khai của ông Sang và đề nghị Toà án giám định dấu vân tay tại “giấy chuyển quyền thừa kế sử dụng đất”. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án ông Sang chỉ xuất trình được bản photocopy “giấy chuyển quyền thừa kế sử dụng đất” nên không giám định được; do đó, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Sang đối với diện tích đất này là phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án tại thời điểm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án.

    Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm ông Sang đã cung cấp bản chính giấy “chuyển quyền thừa kế sử dụng đất” lập ngày 20-11-1983 có nội dung đúng như bản photocopy mà ông đã xuất trình cho Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm. Vì vậy, cần xem xét, đánh giá, giám định (dấu vân tay) để xác định giấy tờ trên có phải do cụ Niêm lập thể hiện ý chí của cụ là bán (như ông Sang khai) hay di chúc của cụ Niêm cho ông Sang thừa kế toàn bộ 288,1m2 đất tại 28 Lê Hồng Phong, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Trường hợp xác định được giấy trên là đúng di chúc của cụ Niêm thì cũng phải xem xét đến tính hợp pháp của di chúc vì diện tích đất trên là tài sản chung của cụ Thú và cụ Niêm trong giấy đó mới chỉ có dấu vân tay của cụ Niêm và chữ ký của 4 người thừa kế của hai cụ. Kết quả xác minh làm rõ những vấn đề này mới đủ căn cứ xác định chính xác di sản thừa kế của cụ Thú, cụ Niêm và kỷ phần mà các đương sự được chia (trong đó có ông Sang).

    Theo báo cáo số41/BC-KSDS ngày 23-6-2007 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum thì bản án phúc thẩm nên trên đã được thi hành án, các đượng sự trong vụ án đã nhận phần nhà, đất được chia để sử dụng và có đương sự (bà Quang, bà Minh) đã bán phần đất được chia cho người khác; do đó, khi giải quyết lại vụ án thì phải đưa tất cả những người đã sang nhượng nhà, đất (nếu có) tham gia tố tụng để giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ. Trường hợp có chênh lệch về giá trị tài sản mà các đương sự được chia so với phần mà các đương sự đã nhận thì phải buộc thanh toán phần giá trị tài sản chênh lệch theo đúng quy định của pháp luật.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 07 ngày 02-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 12-8-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum về vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Quang với bị đơn là các ông Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Văn Đường và Nguyễn Văn Chánh.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Trong quá trình giám đốc thẩm, đương sự đã cung cấp bản chính một tài liệu mà trước đó chỉ có bản copy nên không được Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận.

     
    2711 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận