Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Võ Thị Cúc

Chủ đề   RSS   
  • #265469 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Võ Thị Cúc

    Số hiệu

    17/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Võ Thị Cúc

    Ngày ban hành

    07/04/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    …..

    Ngày 07 tháng 4 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn: Bà Võ Thị Cúc sinh năm 1942, trú tại ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

     Bị đơn: Ông Dương Văn Thọ sinh năm 1948, trú tại ấp Tân Phong, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Chị Dương Thị Mỹ Châu sinh năm 1970;

    2. Anh Lưu Văn Việt sinh năm 1968;

    3. Ông Trịnh Văn Thông sinh năm 1942.

    Các anh chị Châu, Việt, Thông cùng trú tại ấp Rau Dưa, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

     4. Ông Nguyễn Hữu Bền sinh năm 1933;

     5. Bà Lê Thị Hoa sinh năm 1950.

    Ông Bền, bà Hoa cùng trú tại ấp Tân Phong, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

    6. Ông Trịnh Văn Hùng sinh năm 1952; trú tại ấp 2 xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau;

    7. Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Cà Mau.

     

    NHẬN THẤY:

    Nguyên đơn là bà Võ Thị Cúc trình bày:

    Bà Cúc được mẹ là cụ Nguyễn Thị Mỹ uỷ quyền khởi kiện đòi lại toàn bộ diện tích 20 công đất mỹ hiện nay ông Dương Văn Thọ đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc đất do cụ Mỹ sử dựng từ năm 1945 . Năm 1978 ông Võ Văn Mười (em ruột của bà Cúc) chém ông Thọ đứt cánh tay, gia đình bà Cúc đã bồi thường tiền thuốc, nhưng năm 1979 ông Thọ đe doạ nên cụ Mỹ và ông Mười bỏ đi nơi khác sinh sống. Toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông Nguyễn Hữu Bền thuê sử dụng. Bị ông Thọ đe doạ, năm 1983 ông Bền trả lại đất cho gia đình bà thì ông Thọ chiếm đất sử dụng, năm 2000 bà Cúc yêu cầu ông Thọ trả lại đất của cụ Mỹ, nhưng ông Thọ không trả nên bà khởi kiện yêu cầu ông Thọ trả lại 20 công đất.

    Bị đơn là ông Dương Văn Thọ trình bày:

    Năm 1978 ông bị ông Nguyễn Văn Mười con bà Mỹ chém đứt một cánh tay.

    Sau khi chém ông thì ông Mười cùng cụ Mỹ bỏ trốn khỏi địa phương. Trước khi bỏ trốn cụ Mỹ đã chuyển nhượng thành quả lao động trên đất vườn cho ông Bền, sau đó ông Bền chuyển nhượng lại cho ông Trịnh Minh Thông, ông Thông canh tác được 01 năm thì chuyển nhượng cho ông Từ Văn Hùng. Năm 1982 ông Hùng sang lại 5 công đất vườn cho ông Thọ. Còn phần đất ruộng cụ Mỹ bỏ hoang nên gia đình ông Thọ sử dụng để ở và canh tác khoảng 13 công. Nguồn gốc đất vườn và đất ruộng là của công giáo cho cụ Mỹ thuê. Quá tình sử dụng ông Thọ đã giao cho con là anh Lưu Văn Việt và chị Dương Thị Mỹ Châu sử dụng 13 công đất ruộng và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15-9-2000. Phần đất vườn ông Thọ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27-9-2000. Ông Thọ không đồng ý trả lại đất tranh chấp theo yêu cầu của bà Cúc. Ông Thọ và anh Việt đều đang thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ngân hàng công thương - Chi nhánh tỉnh Cà Mau để vay tiền.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

    Ông Nguyễn Hữu Bền thừa nhận có canh tác trên đất của cụ Mỹ 02 năm, đến năm 1983 do bị ông Thọ đe dọa nên ông trả đất tại cho cụ Mỹ. Ông không chuyển nhượng đất của cụ Mỹ cho ông Trịnh Văn Thông. Nguồn gốc đất là của công giáo, bà Mỹ có được cấp hay không ông không biết, nay ông không có yêu cầu gì đối với đất tranh chấp.

    Ông Trịnh Văn Thông và Ông Trịnh Văn Hùng xác nhận có việc chuyển nhượng đất tranh chấp như ông Thọ trình bày, nay các ông không có yêu cầu gì về phần đất đã sang nhượng.

    Ngân hàng công thương việt nam - chi nhánh tỉnh Cà Mau do ông Bùi Huỳnh Sơn đại diện trình bày : Ngân hàng không có ý kiến gì về tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn , chỉ yêu cầu anh Việt và bà Hoa trả nợ cho ngân hàng đúng theo hợp đồng vay vốn.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 190/DSST ngày 19-9-2004, Toà án nhân dân huyện Cái Nước quyết định:

    - Bác yêu cầu đòi đất của bà Võ Thị Cúc, giữ nguyên hiện trạng đất. Anh Việt và chị Châu tiếp tục quản lý sử dụng diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Cái Nước cấp cho anh Việt (có vị trí đất kèm theo). Giữ nguyên hiện dạng đất vườn cho ông Dương Văn Thọ và bà Lê Thị Hoa tiếp tác quản lý sử dụng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Cái Nước đã cấp cho ông Thọ (có vị trí đất kèm theo).

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về tứ cận các thửa đất.

    Ngày 24-8-2004 bà Võ Thị Cúc làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 90/DSPT ngày 13-5-2005, Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định sửa một phần án sơ thẩm:

    - Chấp nhận một phần yêu cầu đòi đất của bà Võ Thị Cúc. Buộc anh Việt, chị Châu phải trả phần đất 1 động có diện tích 15.965 m2 (theo đo đạc thực tế) toạ lạc tại ấp Rau Dừa, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau (có tứ cận kèm theo). Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 36401 , tờ bản đồ 6B, thửa số 0672 của anh Việt.

     - Bà Cúc có nghĩa vụ đăng ký kê khai quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên theo quy định của Luật đất đai hiện hành.

    - Giữ nguyên hiện trạng đất vườn cho ông Thọ, bà Hoa tiếp tục quản lý và sử dụng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Cái Nước cấp cho ông Thọ loạt (đất có tứ cận kèm theo).

    Ngày 06-6-2005 anh Lưu Văn Việt, chị Dương Thị Mỹ Châu và ông Dương Văn Thọ làm đơn khiếu nại bản án phúc thẩm có nội dung không đồng ý trả phần đất ruộng.

    Tại quyết định số177/2006/KN-DS ngày 18-10-2006, Chánh án Toà án nhân tối dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 90/DSPT ngày 13-5-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau; Đề nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ án phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số190/DSST ngày 19-8-2004 của Toà án nhân dân huyện Cái Nước.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số318/2006/DS-GĐT ngày 21-12-2006, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối

    cao, quyết định: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 90/DSPT ngày 13-5-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 190/DSST ngày 19-8-2004 của Toà án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Võ Thị Cúc với bị đơn là ông Dương Văn Thọ, với nhận định :

     Căn cứ vào các tài liệu trong hổ sơ vụ án thì diện tích 15.965m2 đất ruộng và 6.450m2 (theo số đo thực tên toạ lạc tại ấp Rau Dừa, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau do gia đình mẹ bà Cúc là Nguyễn Thị Mỹ sử dụng trước năm 1979. Nguồn gốc đất theo các đương sự thừa nhận là của công giáo cho mướn. Bà Cúc cho rằng cụ Mỹ được Nhà nước cấp diện tích đất nêu trên vào năm 1945 nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Khi khởi kiện bà Cúc xuất trình “ đơn xin uỷ quyền đất”của cụ Mỹ nhưng không rõ vị trí đất ở đâu. Tại Toà án bà Cúc thừa nhận từ năm 1979 cụ Mỹ đã cho ông Nguyễn Hữu Bền thuê diện tích đất tranh chấp, năm 1981 ông Bền trả lại gia đình bà không ai canh tác mà chuyển đi nơi khác sinh sống. Ông Nguyễn Hữu Bền xác nhận sau khi gia đình cụ Mỹ chuyển đi nơi khác thì đất bỏ hoang, gia đình ông Thọ vào sử dụng.

    Theo quy định tại khoản 5 Điều 14 Luật đất đai năm 1987, khoản 3 Điều 26 Luật đất đai năm 1993, khoản 11 Điều 38 luật đất đai năm 2003, người được giao đất mà không sử dụng trong 6 tháng - 12 tháng liền mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì bị thu hồi. Thực tế, gia đình ông Thọ, anh Việt, chị Châu đã sử dụng đất tranh chấp lâu dài, ổn định và được Uỷ ban nhân dân huyện Cái Nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2000.

    Như vậy gia đình ông Thọ, anh Việt chị Châu là người sử dụng đất hợp pháp, còn gia đình cụ Mỹ không sử dụng đất từ năm 1979 đến nay và không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp. Vì vậy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu đòi lại đất tranh chấp của bà Cúc . Toà án cấp sơ thẩm quyết đinh bác yêu cầu của bà Cúc về việc kiện ông Thọ để đòi lại đất là đúng. Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm buộc anh Việt chị Châu (Con ông Thọ) trả Cho bà Cúc 15.965m2 đất ruộng là không đúng pháp luật.

    Ngày 20-10-2008 bà Võ Thị Cúc có đơn khiếu ôm với nội dung: Sau khi ông Bền trả đất vào năm 1983 thì gia đình bà quay về nhưng bị ông Thọ đe doạ và chiếm đất của gia đình bà, từ năm 1983 gia đình bà đã nhiều lần đề nghị chính quyền địa phương giải quyết, buộc ông Thọ trả đất nhưng ông Thọ không chấp hành. Gia đình bà đã sử dụng đất tranh chấp nhiều năm nên đất thuộc quyền sử dụng của gia đình bà.

    Tại Quyết định số 738/2009/DS -TK ngày 18-12-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số318/2006/DS-GĐT ngày 21-12- 2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm nêu trên, bản án dân sự phúc thẩm số 90/DSPT ngày 13-5-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án dân sự sơ thẩm số 190/DSST ngày 19-9-2004 của Toà án nhân dân huyện Cái Nước, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Cái Nước xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng qui định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    1. Về tố tụng

    Bà Võ Thị Cúc căn cứ vào "Đơn xin uỷ quyền đất” đề ngày 25-11-1997 để khởi kiện yêu cầu ông Dương Văn Thọ trả lại bà 20 công đất (5 công đất vườn và 15 công đất ruộng). Nội dung "Đơn xin ủy quyền đất” thể hiện tên và chữ ký của người uỷ quyền là Nguyễn Thị Mỹ và người được uỷ quyền là Võ Thị Cúc. Tuy nhiên, nội dung uỷ quyền chỉ thể hiện bà Cúc được mẹ uỷ quyền "để canh tác và nuôi dưỡng cho hai đứa em thương binh và chăm lo thờ cúng tổ tiên", không thể hiện nội dung bà Cúc được tặng cho, thừa kế quyền sử dụng đất, hay được uỷ quyền khởi kiện, tham gia tố tụng vụ án. Tại thời điểm bà Cúc khởi kiện vụ án thì cụ Mỹ đã chết (chết ngày 01-3-1998) nên việc uỷ quyền cũng chấm dứt theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 156 Bộ luật dân sự năm 1995. Vì vậy, bà Cúc không có quyền khởi kiện theo "Đơn xin uỷ quyền đất” của cụ Mỹ.

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì cụ Mỹ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng chưa có các loại giấy tờ theo qui định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003 , trên đất cũng không có nhà ở hay vật kiến trúc, cây lâu năm của cụ Mỹ. Tòa án các cấp chưa xác minh, thu thập đấy đủ các chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của cụ Mỹ để làm rõ đất tranh chấp có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ Mỹ hay không, chưa có đủ căn cứ để xác định đất tranh chấp có phải là di sản thừa kế do cụ Mỹ để lại hay không; bà Cúc và những ai là đồng thừa kế của cụ Mỹ, làm căn cứ xác định những ai có quyền khởi kiện vụ án với tư cách là đồng thừa kế hợp pháp của cụ Mỹ. Toà án các cấp cho rằng bà Võ Thị Cúc có quyền khởi kiện và thụ lý giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.

    2. Về nội dung vụ án

    Toà án các cấp chấp nhận hay bác yêu cầu đòi đất của nguyên đơn cũng đều chưa có đủ căn cứ Bà Cúc khai gia đình bà đã sử dụng 20 công đất tranh chấp từ năm 1945 (thuê của công giáo), đến năm 1960 được chính quyền cách mạng tạm cấp cho gia đình bộ sử dụng, gia đình bà sử dụng đất đến năm 1979 thì cho ông Bền mướn sử dụng đến năm 1983. Năm 1983 em bà là ông Mười chém đứt một cánh tay của ông Thọ nên ông Thọ đã đe doạ và chiếm đất của gia đình bà. Từ năm 1983 đến năm 2000 gia đình bà đã nhiều lần đề nghị chính quyền địa phương giải quyết, buộc ông Thọ trả lại đất, nhưng không thành. Tài liệu giải quyết trước đây giữa gia đình bà với ông Thọ đã bị thất lạc. Trong hồ sơ vụ án có xác nhận của nhiều nhân chứng đang sinh sống tại địa phương, trong đó có cả cán bộ xã nơi có đất tranh chấp như ông Nguyễn Minh Thuỳ là Phó trưởng Công an xã thời kỳ 1978-1983, ông Nguyễn Minh Thuyên nguyên Chủ tịch xã vào năm 1984 (Bl 48, 52) . . . là có việc ông Thọ đe doạ, chiếm đất và chính quyền địa phương đã nhiều lần giải quyết khiếu nại đòi đất của gia đình bà Cúc, nhưng ông Thọ không chấp hành. Mặt khác, tại đơn yêu cầu của ông Thọ đề ngày 27-3-2005 (BL155), ông Trịnh Minh Thông (nguyên Phó ban Nông nghiệp xã Hưng Mỹ vào năm 1983) xác nhận: “thực hiện chỉ thị 100 của Đảng để tổ chức tập đoàn và trang trải đất thì bà Mỹ không có mặt vì bà bỏ đi, tập thể mới giao cho ông Dương Văn Thọ phần đất đó là đất của Công giáo chứ không phải của ai hết... ". Như vậy, với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì chưa đủ căn cứ kết luận đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà Cúc hay ông Thọ cần xác minh các tài liệu địa chính, thu thập chứng cứ từ những người có thầm quyền quản lý đất đai qua các thời kỳ, làm rõ căn cứ sử dụng đất, quá trình sử dụng đất tranh chấp của các bên, đồng thời cũng cần xác minh làm rõ có đúng gia đình bà Cúc bị ông Thọ đe doạ chiếm đất và gia đình bà đã đề nghị chính quyền địa phương giải quyết từ năm 1983 đến nay không, hay gia đình bà Cúc bỏ đất hoang mới có đầy đủ căn cứ giải quyết vụ án.

    Bởi các lẽ trên,

    Căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ Quyết định giám đốc thẩm318/2006/DS-GĐT ngày 21-12-2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bản án dân sự phúc thẩm số 90/DSPT ngày 13-5-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án dân sự sơ thẩm số 190/DSST ngày 19- 9-2004 của Toà án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

     

     
    5337 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận