Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

Chủ đề   RSS   
  • #265356 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Số hiệu

    07/2008/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Ngày ban hành

    13/05/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 13 tháng 5 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa:

    Nguyên đơn: Bà Tôn Thị Tuyết Mai, sinh năm 1946; trú tại số nhà 21 đường 3/2, khu phố 1, phường Tân Quy, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh;

    Bị đơn:

    1. Ông Hà Cân, sinh năm 1932,

    2. Bà Lê Thị Mỹ Bích, sinh năm 1940;

    Cùng trú tại nhà số 6-8 Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:  Sư đoàn 370 Quân chủng Phòng không - Không quân; địa chỉ: số 18A Cộng Hòa, phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (do ông Hồ Chí Tuyên đại diện theo ủy quyền).

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 31-8-2002, lời trình bày của bà Tôn Thị Tuyết Mai và các tài liệu, chứng cứ khác do bà Mai xuất trình có trong hồ sơ vụ án, thì:

    Vào ngày 13-3-1974 bà mua của ông Nguyễn Đức Khánh (là sỹ quan không quân của chế độ cũ) lô đất số B.64 thuộc khu cư xá Tân Sơn Nhất, tọa lạc tại xã Tân Sơn Hòa, tổng Dương Hòa Thượng, tỉnh Gia Định (nay là số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) có diện tích 241m2 (nguồn gốc lô đất này trước năm 1975, “thuộc quyền sử dụng của Bộ Quốc phòng (Bộ tư lệnh Không quân chế độ cũ)… để xây dựng cư xá cho sỹ quan không quân” và ông Nguyễn Đức Khánh (sỹ quan không quân chế độ cũ) cùng vợ là bà Trần Thị Mỹ Dung được hưởng dụng để xây cất nhà ở theo Giấy phép hưởng dụng đất số 0185-HTX/KO/SQKQ ngày 21-10-1966 của Hợp tác xã Kiến ốc Sỹ quan không quân thuộc Bộ tư lệnh Không quân chế độ cũ). Giấy chuyển nhượng đất giữa bà với ông Khánh được Ủy ban hành chánh xã Tân Sơn Hòa, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định (chế độ cũ) chứng nhận. Sau khi sang nhượng đất bà đã xây dựng trên lô đất này một căn nhà bằng vật liệu nhẹ (cột gỗ, mái tole, vách ván, nền tráng xi măng) với diện tích 5m x 10m và xây tường rào bao quanh khuôn viên nhà và đất. Sau ngày 30-4-1975, Ủy ban quân quản không cho bà ở với lý do đây là khu vực quân sự. Năm 1977, trong đợt kê khai nhà đất bà có kê khai đăng ký về nhà đất này nhưng chính quyền không chấp nhận. Năm 1978, bà thấy có chuồng heo, chuồng gà trên phần đất của bà nên bà có đơn xin lại nhà đất nhưng không được chấp nhận vì đây là khu quân sự. Sau nhiều lần yêu cầu ông Hà Cân (trú tại nhà số 6 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) là người đã xây dựng nhà trên đất của bà trả lại nhà đất nhưng ông Hà Cân không trả nên bà đã khiếu nại đến cơ quan nhà nước và quân đội đề nghị giải quyết nhưng không được cơ quan nào giải quyết dứt điểm. Đến cuối năm 1993, Ủy ban nhân dân phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh đã nhận đơn của bà để giải quyết, nhưng cũng không giải quyết được. Từ năm 1992 đến nay (ngày khởi kiện), bà nộp thuế nhà đất cho diện tích đất nói trên. Ngày 27-9-1999, bà đã kê khai đăng ký nhà đất tại Ủy ban nhân dân phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Nay bà đề nghị Tòa án buộc gia đình ông Hà Cân phải trả lại nguyên trạng nhà và đất số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh hoặc phải thanh toán giá trị nhà đất cho gia đình bà. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 02-5-2003 bà Mai yêu cầu ông Hà Cân trả lại diện tích 241m2 tại số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh hoặc bồi thường giá trị đất cho gia đình bà.

    Theo lời trình bày của ông Hà Cân và các tài liệu, chứng cứ do ông Hà Cân cung cấp, thì: Ngày 20-7-1977, ông được Giám đốc sân bay Tân Sơn Nhất tạm cấp chỗ ở tại số 6 đường Sông Đáy, phường 4 (nay là phường 2), quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (Quyết định tạm cấp nhà ở cho cán bộ số 24/CB ngày 20-7-1977). Năm 1989, gia đình ông có đơn xin Ban giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất, Sư đoàn 370 và Ủy ban nhân dân phường 2 nới rộng diện tích nhà sang phần đất trống tại số 8 Sông Đáy và được các cơ quan này đồng ý. Ngày 20-4-1990, gia đình ông được Sở xây dựng cấp giấy phép xây dựng số588/GPXD-90 với tổng diện tích xây dựng là 188,43m2. Khi khởi công xây dựng ông không thông báo với cơ quan quản lý nhà như yêu cầu trong giấy phép xây dựng. Năm 1994, bà Mai có đơn kiện, Ban tư pháp phường 2 có tiến hành hòa giải nhưng không thành nên đã chuyển vụ việc tranh chấp đến Tòa án giải quyết, nhưng ông không thấy Tòa án mời ông lên để giải quyết. Ngày 26-01-1999, gia đình ông được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1052/99. Nay bà Mai khởi kiện yêu cầu gia đình ông phải trả lại nhà đất tại số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh hoặc phải thanh toán giá trị nhà đất cho gia đình bà, ông không đồng ý; bởi vì: theo ông thì bà Mai không đủ tư cách kiện đòi lô đất đang tranh chấp vì khu đất này thuộc cư xá không quân của chính quyền cũ, sau giải phóng nhà nước (quân đội tiếp quản nên thuộc quyền quản lý của nhà nước).

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 73/DSST ngày 02-5-2003 Tòa án nhân dân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ các điều 1, 19 và 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; các Điều 264, 265, 266 Bộ luật dân sự; Thông tư số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản, quyết định: Chấp nhận yêu cầu của bà Tôn Thị Tuyết Mai.

    - Buộc ông Hà Cân và bà Lê Thị Mỹ Bích có trách nhiệm hoàn trả lại bà Tôn Thị Tuyết Mai 991,8 lượng vàng SJC trị giá đất của căn nhà số 8 Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Việc giao nhận vàng được thực hiện tại Đội Thi hành án quận Tân Bình.

    - Sau khi thi hành án xong ông Cân và bà Mai được phép đến cơ quan chức năng để làm thủ tục quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nhà số 8 Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

    Ngày 12-5-2003, ông Hà Cân có đơn kháng cáo.

    Ngày 03-6-2003, Sư đoàn 370, Quân chủng Phòng không – Không quân có Công văn số643/CV-SĐ và ngày 17-7-2004 Bộ Quốc phòng có Công văn số 3508/BQP gửi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho rằng phần đất đang tranh chấp vẫn thuộc quyền quản lý của Quân chủng Phòng không – Không quân; Sư đoàn 370 yêu cầu được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đơn vị.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1564/DSPT ngày 26-7-2004 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Hủy bản án dân sự sơ thẩm số số 73/DSST ngày 02-5-2003 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình và giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền.

    Ngày 06-6-2005, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 3104/VPCP gửi Tòa án nhân dân tối cao có nội dung thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng (thay mặt Thủ tướng) về giải quyết khiếu nại của ông Hà Cân có nội dung: “Theo quy định của Luật đất đai, vụ việc này không thuộc thẩm quyền của Tòa án, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Tòa án địa phương chuyển vụ việc trên đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.”

    Tại quyết định số28/2006/ĐCDS-ST ngày 17-4-2006 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh căn cứ khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003; điểm e khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192, các khoản 1, 3, 4 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định:

    Đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý số393/2004/TLST-DS ngày 20-9-2004 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ đính kèm đơn khởi kiện cho bà Tôn Thị Tuyết Mai, với lý do: “…việc lập giấy nhượng quyền khai thác vĩnh viễn lô đất B64 (nay thuộc phần đất số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) giữa cá nhân ông Khánh (không có mặt bà Dung - vợ ông Khánh) và bà Mai chưa hoàn tất thủ tục sang tên chuyển nhượng quyền hưởng dụng đất theo quy định hiện hành tại thời điểm chuyển nhượng, bà Mai chưa làm thủ tục trước bạ sang tên nên chưa được công nhận quyền sử dụng đất chính thức đối với phần đất này, do đó bà Mai không thuộc diện có giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người đang sử dụng đất, hơn nữa bà Mai cũng không có đủ chứng cứ đủ để xác định trên đất có căn nhà diện tích 5x10m đã bị phía bị đơn dỡ bỏ, nên việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Mai và ông Cân, bà Bích không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

    Ngày 18-5-2006, Tòa án nhân dân quận Tân Bình tống đạt Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nêu trên cho bà Mai.

    Ngày 20-5-2006, bà Tôn Thị Tuyết Mai có đơn kháng cáo.

    Tại quyết định số759/2006/QĐ-PT ngày 28-7-2005 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số28/2006/ĐCDS-ST ngày 17-4-2006 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

    Sau khi nhận được quyết định số759/2006/QĐ-PT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, bà Mai có nhiều đơn khiếu nại gửi đến một số cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức khác, một số Đại biểu Quốc hội.

    Ngày 05-10-2006, Ủy ban pháp luật của Quốc hội khóa XI có văn bản số 1929/UBPL11 chuyển Công văn số 89/CVCT ngày 11-9-2006 của Ủy ban Công giáo thành phố Hồ Chí Minh do Linh mục Phan Khắc Từ ký, đề nghị xem xét việc kháng cáo của bà Mai đối với quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân quận Tân Bình đến Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Ngày 12-10-2006, Văn phòng Ban chấp hành trung ương Đảng có văn bản số1794/TT-TD chuyển “Đơn xin lại nhà đất” đề ngày 24-9-2006 của bà Mai gửi “Các cấp lãnh đạo Trung ương và thành phố” và ông Trương Tấn Sang, trong đó có nội dung khiếu nại việc đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đến Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao để chỉ đạo giải quyết.

    Tại kỳ họp thứ mười Quốc hội khóa XI, Đại biểu Đỗ Trọng Ngoạn chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết vụ án.

    Tại Quyết định số04/2007/DS-KN ngày 09-01-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

    Tại quyết định giám đốc thẩm số50/2006/DS-GĐT ngày 02-3-2007 Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

    “Hủy quyết định dân sự sơ thẩm số28/ĐCDS-ST ngày 17-4-2006 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình và quyết định dân sự phúc thẩm số 759/QĐPT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật”.

    Ngày 21-3-2007, Hội cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số96/KN-HCCB kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao rút lại quyết định kháng nghị số04/2007/KN-DS ngày 09-01-2007 đối với quyết định dân sự phúc thẩm số759/QĐ-PT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 13-9-2007, Báo Cựu chiến binh Việt Nam đăng bài viết về vụ án này, trong đó có nội dung kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại vụ án.

    Tại quyết định số26/2008/DS-KN-TK ngày 27-02-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số50/2006/DS-GĐT ngày 02-3-2007 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy quyết định giám đốc thẩm nêu trên và giữ nguyên quyết định phúc thẩm số759/2006/QĐ-PT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Tôn Thị Tuyết Mai với bị đơn là ông Hà Cân và bà Lê Thị Mỹ Bích.

    XÉT THẤY:

    Diện tích 241m2 đất tọa lạc tại lô B.64 nằm trong khu đất A và B tờ họa đồ tổng quát và bản đồ xã Tân Sơn Hòa, tổng Dương Hòa Thượng, tỉnh Gia Định (nay là số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh), nguyên trước năm 1975 được Phủ Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương Việt Nam Cộng hòa (chế độ cũ) đặc cách cấp cho Bộ Quốc phòng (Bộ tư lệnh Không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa của chế độ cũ) để xây cất cư xá cho sỹ quan không quân (văn bản số 853/HĐ/GP ngày 19-6-1965); sau đó Bộ tư lệnh Không quân có văn bản số 06643/TTM/KO/KC/3 ngày 04-6-1966 giao phó cho Hợp tác xã Kiến ốc sĩ quan Không quân đảm nhận công việc xây cất cư xá sĩ quan Không quân. Ngày 21-10-1966, Hợp tác xã Kiến ốc sĩ quan KHông quân cấp Giấy phép hưởng dụng đất (số 0185-HTX/KO/SQKQ) cho Thiếu tá Nguyễn Đức Khánh (là xã viên của Hợp tác xã Kiến ốc sĩ quan Không quân) cùng vợ là bà Trần Thị Mỹ Dung để xây cất nhà ở tại khu cư xá Tân Sơn Nhất; kèm theo Giấy phép hưởng dụng đất là điều khoản đặc biệt của Hợp tác xã kiến ốc sĩ quan Không quân áp dụng cho xã viên chỉ được quyền hưởng dụng lô đất để xây cất nhà ở. Đến ngày 30-4-1975, lô đất trên vẫn chưa được xây cất nhà ở.

    Ngày 13-3-1974, ông Nguyễn Đức Khánh viết Giấy ủy quyền trong đó có nội dung: “…dành trọn quyền khai thác vĩnh viễn miếng đất trên cho cô Tôn Thị Tuyết Mai…”. Giấy ủy quyền này là giấy viết tay, chỉ có chữ ký của người đứng tên Nguyễn Đức Khánh trong giấy, của bà Mai và có xác nhận chữ ký (của ông Khánh và bà Mai) của Ủy ban hành chánh xã Tân Sơn Hòa (chế độ cũ), không có chữ ký của bà Trần Thị Mỹ Dung (vợ ông Khánh). Lúc bấy giờ diện tích đất này nằm trong khu vực quân sự, thuộc sự quản lý của Bộ quốc phòng chế độ cũ (Bộ tư lệnh không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa) ông Khánh chỉ được phép hưởng dụng để xây nhà ở, không được cho quyền chuyển nhượng đất. Thực tế bà Mai chưa được cơ quan có thẩm quyền thời kỳ đó công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp.

    Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), diện tích đất trên nằm trong diện tích đất do Bộ Quốc phòng tiếp quản và giao cho Sư đoàn 370 Quân chủng Phòng không - Không quân trực tiếp quản lý, sử dụng. Từ đó đến nay bà Mai không được quản lý, sử dụng diện tích đất nói trên.

    Ngày 20-7-1977, Giám đốc Sân bay Tân Sơn Nhất ra quyết định tạm cấp nhà ở cho cán bộ số 24/CB trong đó có nội dung: “Tạm cấp cho đồng chí Hà Cân… một chỗ ở cho gia đình số 6 đường Sông Đáy, phường 4, quận Tân Bình”.  Ngày 20-4-1990, gia đình ông Hà Cân được Sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép xây dựng số588/GPXD-90 trong đó ghi rõ: “Được phép xây dựng công trình nhà ở theo thiết kế…, trên thửa đất 70 tờ 3 Tân Sơn Hòa (xây dựng trong khuôn viên hiện hữu) tọa lạc tại số 6 đường Sông Đáy phường 2 quận Tân Bình…”. Ngày 26-01-1999, gia đình ông Hà Cân được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 6 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh với diện tích xây dựng là 160,86m2 và diện tích đất là 271,61m2. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 02-5-2003 ông Hà Cân thừa nhận ông chưa được hợp thức hóa nhà số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình và cũng không nộp thuế cho diện tích đất này.

    Ngày 14-10-1987 và ngày 11-01-1995, Tư lệnh Quân chủng không quân có văn bản số 332/CV và văn bản số57/QĐ-QCKQ giao cho Sư đoàn 370 quản lý khu gia đình cán bộ sân bay Tân Sơn Nhất và các sân bay khác trực thuộc Sư đoàn (Quản lý toàn bộ số nhà Quân chủng đã quyết định cấp cho cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp…).

    Ngày 03-6-2003, Sư đoàn 370 Quân chủng Phòng không - Không quân có công văn số643/CV-SĐ gửi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: “Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã cấp chủ quyền nhà và quyền sử dụng đất cho gia đình ông Hà Cân tại nhà số 6 Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình. Riêng phần đất trống kế bên (hiện vẫn do Sư đoàn quản lý) đơn vị cho gia đình ông Hà Cân tạm sử dụng, nay ông Hà Cân đã xây nhà đơn vị sẽ tiếp tục xử lý phù hợp với chính sách đối với người có công”.

    Ngày 17-7-2004, Bộ quốc phòng có văn bản số 3508/BQP gửi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nội dung:

    “Hiện nay các khu gia đình của Sư đoàn 370/KQ (kể cả khu nhà ở của cán bộ Tổng cục Hàng không dân dụng) và của các đơn vị Bộ Quốc phòng trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất vẫn do các đơn vị quân đội quản lý, chưa tiến hành chuyển giao quyền quản lý ra chính quyền địa phương. Như vậy, nếu phần đất có tranh chấp chưa được cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” cho ông Hà Cân, thì hiện nay vẫn thuộc quyền quản lý của Quân chủng Phòng không – Không quân, mà trực tiếp là sư đoàn 370/KQ”.

    Như vậy, với các tài liệu, chứng cứ viện dẫn trên cho thấy: tuy ông Hà Cân là người trực tiếp quản lý, sử dụng và đã xây dựng nhà trên diện tích đất tại số 8 đường Sông Đáy nhưng ông Hà Cân chưa được cơ quan có thẩm quyền của quân đội hoặc Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giao quyền sử dụng đất, mà diện tích đất này vẫn thuộc quyền quản lý của Sư đoàn 370 Quân chủng Phòng không - Không quân.

    Bà Mai khai rằng sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Khánh, bà đã dựng một căn nhà lợp tôn, vách gỗ, nền bằng xi măng vào năm 1974. Các nhân chứng là bà Phạm Minh Ngọc và Phạm Thị Vui cũng có lời khai xác định bà Mai mua đất và dựng nhà bằng vật liệu nhẹ. Tuy nhiên, tại đơn khiếu nại xin đất đề ngày 25-9-1993 (có xác nhận của chính quyền địa phương) gửi Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các cơ quan liên quan, bà Mai viết: “chưa kịp cất nhà thì đất nước được giải phóng”.

    Ông Hà Cân khai rằng khi ông về ở tại nhà số 6 đường Sông Đáy vào năm 1977 thì trên đất tại số 8 đường Sông Đáy không có nhà. Các nhân chứng là các ông Nguyễn Trung Trực và Nguyễn Tấn Hải đều khai là vào năm 1978 trên đất tại số 8 Sông Đáy không có nhà. Bà Mai cũng thừa nhận, đến năm 1978 khi bà quay lại thì nhà không còn nữa. Vì vậy, không có đủ căn cứ để kết luận sau khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Khánh, bà Mai có làm nhà trên đất tại số 8 đường Sông Đáy. Giả sử có việc bà Mai làm nhà trên đất tại số 8 đường Sông Đáy thì cũng không có căn cứ chứng minh rằng ông Hà Cân đã phá bỏ nhà của bà Mai như bà Mai khai.

    Theo quyết định sô 111/CP ngày 14-4-1977 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 40/TT ngày 17-11-1977 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành chính sách xử lý nhà đất của các tổ chức và của cá nhân những người làm việc trong quân đội và chính quyền Mỹ, Ngụy và của đảng phái phản động ở các đô thị miền Nam, thì diện tích đất nói trên là tài sản công cộng do Nhà nước trực tiếp quản lý (Nhà nước đã thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lô đất nêu trên). Vì vậy, việc khiếu kiện của bà Tôn Thị Tuyết Mai đối với quyền sử dụng lô đất 241m2 nêu trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

    Trong quá trình khiếu nại, bà Tôn Thị Tuyết Mai có xuất trình Giấy ủy quyền của ông Nguyễn Đức Khánh, trong đó có nội dung: “…dành trọn quyền khai thác vĩnh viễn miếng đất trên cho cô Tôn Thị Tuyết Mai…”. Tuy nhiên, giấy ủy quyền này (như đã nêu trên) là giấy viết tay, chỉ có chữ ký của người đứng tên Nguyễn Đức Khánh trong giấy, của bà Mai và có xác nhận chữ ký (của ông Khánh và bà Mai) của Ủy ban hành chánh xã Tân Sơn Hòa (chế độ cũ), không có chữ ký của bà Trần Thị Mỹ Dung (vợ ông Khánh); bà Mai chưa được cơ quan có thẩm quyền thời kỳ đó công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Ngoài giấy ủy quyền trên, bà Mai không có một loại giấy tờ nào khác được quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai; vì vậy trường hợp khiếu kiện trên nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì bà Tôn Thị Tuyết Mai cũng không phải là người có quyền khởi kiện để tranh chấp quyền sử dụng đất.

    Khi bà Tôn Thị Tuyết Mai khởi kiện đòi gia đình ông Hà Cân trả lại diện tích đất tại số 8 đường Sông Đáy, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh hoặc bồi thường giá trị đất, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án để giải quyết là không đúng pháp luật. Sau khi thụ lý vụ án (lần thứ hai) do bản án sơ thẩm (lần thứ nhất) bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy để giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật, thì ngày 17-4-2006, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ cho bà Mai là đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 168; khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự. Khi có kháng cáo của bà Mai, Tòa án cấp phúc thẩm (Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh) áp dụng điểm a khoản 5 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng pháp luật. Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy quyết định dân sự sơ thẩm số28/ĐCDS-ST ngày 17-4-2006 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình và quyết định dân sự phúc thẩm số759/2006/QĐ-PT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại với lý do yêu cầu khởi kiện của bà Tôn Thị Tuyết Mai (đối với ông Hà Cân) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là không đúng quy định của pháp luật.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 2 Điều 297 và Điều 298 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Hủy quyết định giám đốc thẩm số50/2006/DS-GĐT ngày 02-3-2007 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định phúc thẩm số759/2006/QĐ-PT ngày 28-7-2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Tôn Thị Tuyết Mai với bị đơn là ông Hà Cân và bà Lê Thị Mỹ Bích.

    Lý quyết định giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:

    Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện là đúng; Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng, nhưng quyết định giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao lại hủy cả hai quyết định đó là không đúng pháp luật.

     

     
    4111 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận