Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265417 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Số hiệu

    05/2009/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Ngày ban hành

    11/03/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 11 tháng 3 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa:

    Nguyên đơn:

    1. Ông Robert James Brown, sinh năm 1933, quốc tịch: Mỹ; địa chỉ: 1408 Pecan Grove CT College Station TX 77845 9361 USA.

    2. Bà Trần Thị Ba, sinh năm 1940; uỷ quyền cho ông Robert James Brown đại diện (văn bản uỷ quyền ngày 25-7-2006).

    Bị đơn: Ông Nhan Hùng Cường, sinh năm 1957; trú tại 118 Trần Quốc Tuấn, khóm 2, phường 2, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

    Ngư­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Trần Thị Sáu sinh năm 1950, uỷ quyền cho ông Nhan Hùng Cường đại diện (văn bản uỷ quyền ngày 21-8-2006).

    2. Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiều hối Đông Á- Chi nhánh quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Nguyễn Văn Kháng- Giám đốc Chi nhánh Công ty đại diện; uỷ  quyền cho ông Lê Hoàng Thanh (văn bản uỷ quyền ngày 05-5-2007).

    3. Ông Lê Hoàng Thanh sinh năm 1966; trú tại nhà số 26/14 đường Lý Thường Kiệt, phường 4, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 21-7-2006 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Robert James Brown (sau đây gọi tắt là ông Brown), bà Trần Thị Ba trình bày: Năm 2005, năm 2006, vợ chồng ông bà đã gửi cho vợ chồng ông Nhan Hùng Cường, bà Trần Thị Sáu (em ruột bà Ba) 65.000 USD (gửi 8 lần) để mua đất, cất nhà giùm cho ông bà về ở dưỡng già (trong đó 10.000 USD mua đất, 55.000 USD cất nhà; việc gửi tiền được thông qua công ty Omnex Group Inc “Le gởi tiền Lẹ” ở Mỹ, chuyển qua Công ty TNHH Kiều hối Đông Á tại thành phố Hồ Chí Minh, do ông Lê Hoàng Thanh là nhân viên công ty đã trực tiếp giao tiền cho ông Cường). Ông Cường đã nhận tiền vì ông đã nhận được 7 hồi báo.

    Trong quá trình cất nhà, vợ chồng ông đã cho con về Việt Nam coi; ông Cường đã chụp ảnh căn nhà gửi cho ông. Sau khi cất nhà xong, ông bà về Việt Nam nhận nhà đất vào ngày 13-01-2006 và ở luôn tại nhà này. Ông bà đã đưa cho ông Cường 4.000 USD để mua một số vật dụng: 4 máy điều hoà nhiệt độ, 4 giường hộp, 3 nệm, 1 tủ nhôm, 1 bếp ga và bình ga, rèm treo cửa (bà Sáu viết giấy tặng ông bà rèm treo cửa). Ngoài ra, ông bà mua thêm đồ dùng khác (tủ lạnh; máy giặt; ti vi; một bộ sofa; một bộ bàn ghế tròn; một bộ bàn ăn, có 8 ghế).

    Ngày 27-02-2006, ông Cường, bà Sáu lập hợp đồng bán cho ông bà căn nhà 315A đường Sơn Thông với giá 55.000 USD, để hợp thức hóa quyền sở hữu nhà cho vợ chồng ông, bà. Ngày 09-8-2006 ông đi thành phố Hồ Chí Minh, khi trở về (ngày 11-8-2006) ông Cường đã khoá cửa nhà và thay khoá khác, không cho ông vào nhà.

    Vì lý do nêu trên, ông bà yêu cầu công nhận nhà số 315A đường Sơn Thông của vợ chồng ông. Trường hợp pháp luật không cho phép ông bà được sở hữu nhà đất, thì ông Cường, bà Sáu phải trả cho ông bà giá trị nhà đất theo thời giá. (Sau đó, ông Brown đã thay đổi yêu cầu ông Cường trả 55.000 USD  theo 7 biên nhận tiền; 4000 USD để mua đồ đạc nêu trên, cộng là 59.000 USD; không yêu cầu giải quyết về tài sản như: máy lạnh, ti vi, bộ sofa. .và số tiền 10.000 USD mà ông đã gửi cho con gái ông Cường).

    Bị đơn là ông Nhan Hùng Cường trình bày: Vợ chồng ông không thoả thuận mua đất, cất nhà giùm cho bà Ba, ông Brown. Ngày 13-01-2006 bà Ba và ông Brown từ Mỹ về Việt Nam và sống tại nhà của ông tại số 118 đường Trần Quốc Tuấn, thị xã Trà Vinh. Do nhà chật chội, nên ông đồng ý cho bà Ba được ở tạm tại căn nhà số 315A Sơn Thông, khóm 1, phường 7, thị xã Trà Vinh. Nguồn gốc căn nhà số 315A là do năm 2004 ông nhận chuyển nhượng đất của 3 người (trong đó, của chị Nhan Thuý Nhung 390,90m2; của bà Quảng Thị Quắn 933,4m2; của bà Lê Thị Mộng Diễm 392,3m2) với tổng diện tích 1.716,60m2. Sau đó, ông xin phép xây dựng nhà chung cư để bán và cất nhà số 315A đường Sơn Thông để làm khách sạn nhỏ (Ngày 25-11-2005 Sở Xây dựng tỉnh Trà Vinh cấp giấy phép xây dựng cho Doanh nghiệp tư nhân Minh Trí, đại diện chủ doanh nghiệp là ông được xây dựng: khu nhà ở giáo viên- Cán bộ công nhân viên chức tại các lô đất số 49- 53 -72, với tổng diện tích đất 690,80 m2). Ông đã bỏ tiền xây dựng nhà và khu chung cư; ông có fax mẫu nhà cho bà Ba, nhưng mục đích chỉ để khoe với bà Ba.

    Khi bà Ba, ông Brown về Việt Nam (ngày 13-01-2006), bà Ba muốn mua căn nhà số 315A nêu trên (bà Ba nói với ông rằng bà đang làm thủ tục hồi hương); bà Ba còn yêu cầu ông ghi giá từng đồ đạc trong nhà để bà Ba tham khảo, nếu bà Ba đồng ý thì mua luôn đồ đạc đó (có lúc ông Cường thừa nhận bà Ba và ông Brown mua một ti vi, một bộ bàn ăn có 8 ghế).

    Ngày 27-02-2006 vợ chồng ông ký hợp đồng bán cho bà Ba căn nhà số 315A đường Sơn Thông với giá 55.000 USD trong đó ghi rõ: “đàng mua giao đủ tiền cho đàng bán khi thủ tục hợp đồng mua bán nhà ở đã được UBND Thị xã Trà Vinh chứng thực và hoàn tất trước bạ sang tên”; nhưng bà Ba không trả tiền theo hợp đồng. Do bà Ba về Mỹ, còn ông Brown đi đâu không rõ; ông đã trình báo chính quyền để ông khoá cửa ngoài. Ngày 11-8-2006 ông Brown về và yêu cầu ông cho vào nhà để lấy tài sản, sau đó ông Brown lại đi. Việc mua bán nhà đất không thành, ông lấy lại nhà số 315A để kinh doanh.

    Ông có nhận tiền nhiều lần do bà Ba (từ Mỹ) gửi về; khi đó bà Ba có nhã ý cho ông một số tiền để mở rộng kinh doanh (vì ông có công sức nuôi 2 con và mẹ của bà Ba). Ông không nhớ rõ là đã nhận tiền gửi về bao nhiêu lần, nhưng đó là tiền của bà Ba cho vợ chồng ông. Cũng có lúc bà Ba gửi tiền về nhưng không nói rõ cho hay mượn (có lúc khai là việc gửi tiền về lần nào cũng vậy, ông đều được bà Ba gọi điện cho biết vì trong đó có những lần gửi về cho vợ chồng ông để nuôi 2 con của bà Ba). Các Biên nhận về việc nhận tiền (do ông Brown xuất trình có tiêu đề “Le gởi tiền Lẹ”/Kiều hối Đông Á, có chữ ký và chữ viết đề tên ông), không phải do ông viết, không phải do ông ký (sau này ông Cường thừa nhận là có nhận 10.000 USD của bà Ba).

     Nếu vợ chồng bà Ba xuất trình được chứng cứ chứng minh là ông có mượn tiền của họ thì ông sẽ trả đủ. Ông nhận 10.000 USD, nhưng đó là tiền do bà Ba cho, nên không đồng ý trả lại cho vợ chồng bà Ba, ông Brown; không đồng ý trả 4.000 USD vì bà Ba chưa đưa cho ông khoản tiền này.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Công ty TNHH Kiều hối Đông Á (do ông Nguyễn Văn Kháng-Giám đốc đại diện) trình bày: Thực hiện yêu cầu chuyển tiền ghi trong hồ sơ của  công ty Omnex Group Inc (Le gởi tiền Lẹ) của Mỹ, Công ty TNHH Kiều hối Đông Á ở thành phố Hồ Chí Minh đã giao tiền kiều hối cho ông Nhan Hùng Cường (có số chứng minh nhân dân; địa chỉ rõ ràng) tổng cộng là 7 lần, với số tiền 55.000 USD. Việc giao nhận tiền kiều hối này do ông Lê Hoàng Thanh, là nhân viên chi trả kiều hối của công ty thực hiện.

    Ông Lê Hoàng Thanh trình bày: ông là nhân viên công ty TNHH kiều hối Đông Á-Chi nhánh quận 5. Ông được Công ty giao tiền để giao trực tiếp cho ông Nhan Hùng Cường. Nguyên tắc giao tiền là hỏi tên người mà ông giao, kiểm tra, đối chiếu với chứng minh nhân dân, nếu đúng thì giao nhận tiền. Ông đã giao tiền trực tiếp cho ông Cường (7 lần), ông Cường đã ký nhận; sau đó ông fax biên nhận về Công ty TNHH Kiều hối Đông Á, để Công ty fax đi nước ngoài cho  người gửi tiền. Ông giữ bản chính, nhưng do trời mưa, nhà của ông bị ngập nước, chỉ còn lại 1 biên nhận (bản chính) ghi số tiền mà ông Cường nhận là 10.000 USD ngày 26-3-2005.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DSST ngày 11-6-2007, Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định:

    Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Robert James Brown và bà  Trần Thị Ba

    Buộc ông Nhan Hùng Cường phải thanh toán cho ông Brown và bà Ba 225.078.000 đồng.

    Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 19-6-2007, ông Cường có đơn kháng cáo không đồng ý trả cho ông Brown, bà Ba 14.000 USD.

    Ngày 21-6-2007, ông Brown và bà Ba có đơn kháng cáo cho rằng vợ chồng ông, bà đã gửi 55.000 USD về để ông Cường mua đất, cất nhà và 4000 USD gửi cho bà Sáu (vợ ông Cường)  để mua đồ đạc, cộng là 59.000 USD; nhưng Toà án cấp sơ thẩm chỉ buộc ông Cường trả cho ông, bà 14.000 USD là không đúng.

    Tại Quyết định số 27/QĐ/KN-PT-P5 ngày 25-6-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên và đề nghị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, với lập luận: ông Cường nhận 10.000 USD của bà Ba gửi về cho vợ chồng ông vì vợ chồng ông có công nuôi mẹ và 2 con của bà Ba từ trước năm 1975 cho đến nay, nên đây là tiền tặng cho, không phải trả lại. Không có cơ sở để xác định vợ chồng ông Cường nhận 4.000 USD của bà Ba, ông Brown.

    Tại phiên toà phúc thẩm ngày 30-5-2008, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà đã rút kháng nghị số 27/QĐ/KN-PT-P5 ngày 25-6-2007 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh và đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 59.000 USD.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 208/2008/DSPT ngày 30-5-2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Sửa án sơ thẩm.

    Buộc ông Nhan Hùng Cường phải thanh toán cho ông Robert James Brown và bà Trần Thị Ba 59.000 USD. Số tiền này được qui đổi thành tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá hối đoái tiền USD với tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá hối đoái tiền USD với tiền Việt Nam đồng (giá mua vào) do Ngân hàng Nhà nước qui định vào thời điểm thanh toán.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nhan Hùng Cường, bà Trần Thị Sáu khiếu nại cho rằng Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Cường trả cho bà Ba, ông Brown 59.000 USD và dành cho nguyên đơn một vụ kiện khác để đòi đồ đạc trong nhà là không hợp lý.

    Tại Quyết định số192/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 23-12-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 208/2008/DSPT ngày 30-5-2008 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 08/2007/DSST ngày 11-6-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại với nhận định:

    “. . .Hợp đồng mua bán nhà xác lập ngày 27-02-2006 là vô hiệu về hình thức, vì: ngày 29-5-2006 ông Cường, bà Sáu được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất; Hợp đồng chuyển nhượng nhà chưa có xác nhận của chính quyền địa phương, có chữ ký của nhân chứng. Theo thoả thuận của hợp đồng chưa sang tên sở hữu nhà, đất cho ông Brown nên chưa thanh toán trả tiền; số tiền 55.000 USD do ông Brown gửi về từ năm 2005, 2006 mua đất, làm nhà cho vợ chồng ông Brown nhưng lại không được ghi nhận trong hợp đồng ngày 27-02-2006 do ông Browwn và bà Ba tự nguyện ký tên.

    Tài liệu do nguyên đơn xuất trình gửi và nhận tiền năm 2005, 2006 của ông Brown cho ông Cường qua Công ty Kiều hối Đông Á 7 chứng từ = 55.000 USD, có 01 chứng từ biên nhận số HT- CA-3- 31449 là bản chính (BL73) = 10.000 USD gởi ngày 26-3-2006 phù hợp với tài liệu của Công ty Kiều hối Đông Á (BL72, 78), còn lại 6 chứng từ là bản phô tô ông Cường không thừa nhận đã nhận tiền. Theo bản kết luận giám định số 40/KLGĐ ngày 28-10-2006 của Công an tỉnh Trà Vinh đã kết luận 6 chứng từ biên nhận, hồi báo do Công ty Kiều hối Đông Á lưu giữ (từ BL74,75,76,77,78,79 và 80) không xác định được chữ ký nhận tiền vì bản photocopy. Toà án cấp phúc thẩm xác định ông Brown đã gửi tiền từ năm 2005 với số tiền trên để thanh toán tiền mua nhà là không có cơ sở.

    Mặt khác, năm 2006 hai bên lập hợp đồng không ghi số tiền đã thanh toán gửi tiền trước đó nhưng Toà án vẫn buộc ông Cường phải thanh toán 59.000 USD cho ông Brown và bà Ba là chưa có căn cứ.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Về tố tụng:

    Tại đơn khởi kiện ngày 21-7-2006 và “Tờ trình bổ sung đơn khởi kiện” (ghi ngày 20-7-2006) ông Brown, bà Ba yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ông bà được sở hữu nhà đất số 315A đường Sơn Thông, khóm 1, phường 7, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh theo thỏa thuận mua bán nhà giữa ông bà với vợ chồng ông Cường, Sáu. Trường hợp pháp luật không cho phép thì yêu cầu ông Cường, bà Sáu hoàn lại cho ông bà giá trị nhà đất theo thời giá và trả số tiền 4.000 USD mà ông bà đã giao cho ông Cường để mua đồ đạc trong nhà. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên Tòa phúc thẩm, ông Brown chỉ yêu cầu ông Cường, bà Sáu trả số tiền ông đã gửi về cho ông Cường mua đất, cất nhà là 55.000 USD và 4.000 USD bà Ba đã giao cho ông Cường để mua đồ đạc trong nhà; tổng cộng là 59.000 USD.

    Ông Cường, bà Sáu thì không thừa nhận có việc đã nhận số tiền nêu trên. Như vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp quyền sở hữu tài sản, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định là tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, là chưa chính xác.

    Về nội dung:

    Ông Brown, bà Ba cho rằng năm 2005 và năm 2006, ông đã 7 lần gửi tiền tổng cộng là 55.000 USD từ Mỹ (thông qua dịch vụ Le gởi tiền Lẹ) về Việt Nam để ông Nhan Hùng Cường nhận. Giám đốc Le gởi tiền Lẹ (Liên hợp chuyển tiền quốc tế Le) xác nhận từ ngày 04-02-2005 đến ngày 18-01-2006 ông Brown đã 7 lần gửi số tiền tổng cộng là 55.000 USD đến ông Nhan Hùng Cường, ông Cường đã ký vào các giấy biên nhận. Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiều hối Đông Á cũng xác nhận đã giao số tiền kiều hối nêu trên theo yêu cầu của hồ sơ từ Công ty Omnex Group Inc (Le gởi tiền Lẹ) đến ông Nhan Hùng Cường theo quy định giao nhận tiền kiều hối của Công ty và đã được thống nhất với Công ty Le gởi tiền Lẹ (thể hiện là các biên nhận tiền giữa Công ty với ông Nhan Hùng Cường mà Công ty đã cung cấp cho Tòa án); việc giao tiền kiều hối do ông Lê Hoàng Thanh là nhân viên thực hiện; Công ty có trách nhiệm fax Biên nhận sang Mỹ cho Le gởi tiền Lẹ ngay trong ngày, để đảm bảo quy trình chuyển tiền trong vòng 24 giờ. Ông Lê Hoàng Thanh khẳng định ông đã giao tiền trực tiếp cho ông Cường (7 lần), ông Cường đã ký nhận; sau đó ông fax biên nhận về Công ty TNHH Kiều hối Đông Á, để Công ty fax đi nước ngoài cho người gửi tiền; ông giữ bản chính, nhưng do trời mưa bão, nhà của ông bị ngập nước, chỉ còn lại 1 biên nhận (bản chính) ghi số tiền mà ông Cường nhận là 10.000 USD ngày 26-3-2005.

    Ông Cường lúc đầu không thừa nhận có việc nhận số tiền 55.000 USD do Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiều hối Đông Á giao. Sau khi có kết quả giám định chữ viết và chữ ký trong biên nhận (bản chính) ngày 26-3-2005, thì ông Cường mới thừa nhận chỉ có nhận 10.000 USD, nhưng lại cho rằng đó là tiền bà Ba cho ông, vì ông có công sức nuôi 2 con và mẹ của bà Ba; còn lại số tiền 45.000 USD trong 6 biên nhận (bản photocopy) thì ông Cường không thừa nhận đã nhận số tiền này.

    Căn cứ và 2 bức thư điện tử (có địa chỉ người gửi là Nhungtv@yahoo.com và người nhận là Boboski@aol.com) có nội dung: Ông Cường gửi cho ông Brown hai địa chỉ an toàn của Le gởi tiền Lẹ ở Mỹ để ông Brown có thể chuyển tiền về Việt Nam cho ông Cường nhận tiền tại chi nhánh của họ tại Trà Vinh, kèm theo là địa chỉ, số chứng minh nhân dân, số điện thoại cố định của ông Cường và nói rõ phác họa của ngôi nhà sẽ gửi cho ông Brown sớm (bức thư thứ nhất); chị Thúy Nhung viết: Mẹ con nói với con rằng ngôi nhà mới của bác sắp hoàn thành, mẹ con gửi hình ngôi nhà trong địa chỉ email của bác, bác có thể mở và nhìn thấy nó rất đẹp (bức thư thứ hai).

    Như vậy, có căn cứ xác định có việc ông Brown gửi tiền từ Mỹ cho dịch vụ chuyển tiền (Le gởi tiền Lẹ) để chuyển tiền cho Công ty kiều hối Đông Á và giao cho ông Thanh giao tiền ông Cường, nhưng vì giữa ông vợ chồng ông Brown với vợ chồng ông Cường là quan hệ trong gia đình, nên việc thỏa thuận với nhau không cụ thể; do đó, ông Cường cho rằng ông gửi các bức ảnh về việc xây dựng căn nhà 315A Sơn Thông chỉ là để khoe với bà Ba là không có cơ sở và việc ông Cường không thừa nhận có nhận số tiền 45.000 USD trong 6 biên nhận (bản photocopy), là có mâu thuẫn. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa lấy lời khai của các nhân chứng (chị Nhan Thúy Nhung, hai con và mẹ của bà Ba) để làm rõ việc ông Cường nhận tiền của ông Brown là để mua nhà 315A Sơn Thông hay để trả ơn việc ông Cường nuôi 2 con và mẹ của bà Ba; chưa xác minh làm rõ khi bão (Sangxane) thì gia đình anh Thanh và các gia đình ở khu phố đó có bị ảnh hưởng và có bị thiệt hại gì không, bản gốc 6 biên nhận có bị mất hoặc hư hỏng trong thời gian bão hay không? việc giao nhận tiền giữa Công ty kiều hối Đông Á với ông Thanh thể hiện qua sổ sách như thế nào? Ông Thanh có sổ theo dõi việc nhận và giao tiền không? Đồng thời cần yêu cầu Viện khoa học hình sự-Bộ Công an giám định 6 biên nhận tiền (bản photocopy) để truy nguyên chữ viết và chữ ký và kết hợp cùng với các chứng cứ khác xác định đúng sự thật khách quan của vụ án.

    Đối với số tiền 4.000 USD ông Brown, bà Ba giao cho ông Cường mua đồ đạc trong nhà đã có biên nhận, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Cường phải thanh toán trả ông Brown và bà Ba là có căn cứ.

    Mặt khác, lẽ ra phải buộc ông Cường thanh toán cho ông Brown, bà Ba số tiền đô la Mỹ đã nhận và được quy đổi thành tiền Việt Nam đồng tại thời điểm xét xử, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại quy đổi thành tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá hối đoái (giá mua vào) do Ngân hàng Nhà nước quy định vào thời điểm thanh toán là chưa chính xác.

    Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, 

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 208/2008/DSPT ngày 30-5-2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số08/2007/DS-ST ngày 11-6-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu tài sản” giữa nguyên đơn là ông Robert James Brown, bà Trần Thị Ba với bị đơn là ông Nhan Hùng Cường; ngư­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Sáu, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiều hối Đông Á- Chi nhánh quận 5, thành phố Hồ Chí Minh và ông Lê Hoàng Thanh.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Tòa án các cấp đã xác định sai quan hệ pháp luật đang tranh chấp; chưa làm rõ việc giao nhận tiền giữa các đương sự.

     

     
    4164 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận