Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu nhà ở"

Chủ đề   RSS   
  • #265397 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4356 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu nhà ở"

    Số hiệu

    39/2008/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu nhà ở"

    Ngày ban hành

    22/12/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

        …..

    Ngày 22 tháng 12 năm 2008, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp quyền sở hữu nhà ở” giữa:

    Nguyên đơn: Ông Jacques Võ Khắc Minh, sinh năm 1941, định cư tại Pháp (địa chỉ: 17 Avenu Alphonse Daudet 44420 Piriac/Mer France); tạm trú tại 167/1 Tết Mậu Thân, khu phố 5, D4 thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Tuyết (văn bản ủy quyền ngày 19-8-2004).

    Bị đơn: Bà Võ Thị Đông Phương, sinh năm 1955; trú tại 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngư­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Mauricette Võ Khắc Minh (tên gọi khác là Barabas) sinh năm 1944, uỷ quyền cho chồng là ông Jacques Võ Khắc Minh đại diện (văn bản uỷ quyền ngày 11- 01-2005).

    2. Bà Võ Thị Đông Thảo sinh năm 1962;   

    3. Bà Võ Thị Đông Nghi sinh năm 1969;   

    4. Ông Dương Ngọc Minh sinh năm 1970;

    Cùng trú tại 23B Cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    Đều uỷ quyền cho bà Võ Thị Đông Phương đại diện (theo biên bản lấy lời khai ngày 22-01-2002 và  ngày 12-6-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 04-10-2005 và ngày 25-10-2005, ông Dương Ngọc Minh và bà Võ Thị Đông Thảo lại có văn bản uỷ quyền cho bà Phương đại diện).

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 04-10-2001 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Jacques Võ Khắc Minh trình bày: Ông là Việt kiều ở Pháp. Ông muốn mua nhà ở thành phố Hồ Chí Minh để sau khi về hưu thì cả gia đình ông hồi hương về Việt Nam sinh sống, đồng thời để cha (cụ Võ Văn Hợi) và mẹ kế (cụ Dương Thị Ngọc Ánh) và các em cùng cha khác mẹ (gồm bà Võ Thị Đông Phương, bà Võ Thị Đông Thanh,  bà Võ Thị Đông Thảo) chuyển từ tỉnh Trà Vinh lên thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Năm 1989 ông đã nhiều lần gửi thuốc tây từ Pháp về Việt Nam (có lần ông trực tiếp mang thuốc về) để bà Phương bán và ông gửi thêm tiền về để bà Phương mua căn nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh của gia đình bà Nguyễn Thị Thân vào ngày 19-9-1989 và xây lại nhà này (có lúc ông Minh khai là gia đình yêu cầu ông tài trợ tiền để mua nhà và xây mới căn nhà). Giao dịch mua bán nhà đều do bà Phương thực hiện; giấy tờ mua bán nhà do bà Phương giữ. Khi xây dựng lại nhà, ông và bà Phương đã cùng ký “Hợp đồng giao nhận thi công” với ông Võ Thanh Liêm (ngày 05-4-1990), bà Phương chỉ là đại diện bên giao công trình. Bà Phương có gửi thư thông báo cho ông về tiến độ xây dựng và Bảng chiết tính tiền mua nhà, xây dựng lại nhà, tổng cộng là 45,23 lượng vàng.

    Căn nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh là của ông, nhưng bà Phương đã chiếm nhà, không cho các em và ông vào ở căn nhà này. Vì lý do nêu trên, ông yêu cầu bà Phương trả nhà cho ông (có lúc yêu cầu bà Phương sang tên nhà cho người khác do ông chỉ định).

    Bị đơn là bà Võ Thị Đông Phương trình bày: Ông Jacques Võ Khắc Minh từ Pháp đã gửi thuốc tây về cho bà bán lấy tiền mua nhà, xây dựng mới căn nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm mua nhà (ngày 19-9-1989), bà chưa có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh, nên bà đã nhờ cha mẹ nuôi là vợ chồng cụ Lê Văn Cầm, cụ Nguyễn Thị Một đứng tên giùm tại văn tự mua bán nhà và Giấy phép xây dựng nhà ngày 26-4-1990. Đến ngày 03-4-1990 vợ chồng cụ Cầm, cụ Một đã sang tên lại cho bà quyền sở hữu căn nhà này (bằng hình thức tặng giữ).

    Bảng chiết tính mà bà gửi cho ông Minh do bà viết; tổng số tiền mua nhà và xây dựng lại nhà nêu trên là 45 lượng vàng (trong đó mua nhà 17 lượng, xây lại nhà 28 lượng); tiền mua nhà và xây dựng lại nhà còn thiếu 10 lượng vàng, sau đó ông Minh đã gửi thuốc về cho bà bán để trả số vàng còn thiếu.

    Ông Jacques Võ Khắc Minh đã cho bà số tiền bán thuốc tây và bà đã mua nhà, xây mới lại căn nhà. Từ trước đến nay, ông Võ Khắc Minh gửi quà cho bà để tài trợ, giúp bà gây dựng nhà cửa, chứ không phải để mua nhà giúp ông Võ Khắc Minh; bà không đứng tên giùm ông Võ Khắc Minh mua căn nhà nêu trên; bà không đồng ý trả nhà cho ông Võ Khắc Minh (có lúc khai ông Minh gửi tiền về mua nhà và xây nhà cho các anh em ở Việt Nam ở và làm ăn; lúc khai ông Minh bỏ tiền mua nhà để cho bà nuôi các em; lúc khai ông Minh gửi thuốc về cho gia đình mua nhà và sau này ông Minh cũng về Việt Nam ở; . . .). Hiện nay, có bốn chị em bà là ông Dương Ngọc Minh (Dương Ngọc Minh mang họ mẹ), bà Võ Thị Đông Thảo, bà Võ Thị Đông Nghi, bà và anh Võ Khắc Minh Tân (cháu của bà) đang ở nhà này.

    Ngày 03-12-2003, bà Phương có đơn phản tố (biên lai thu tiền tạm ứng án phí ngày 17-12-2003) cho rằng ông Minh còn nợ bà số tiền 41.500 F (tiền Pháp) tương đương 22 lượng vàng; yêu cầu ông Minh trả lại số tiền này cho bà.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

    1. Bà Võ  Thị Đông Thảo (cùng cha, mẹ với bà Phương; cùng bố khác mẹ với ông Jacques Võ Khắc Minh), bà Võ Thị Đông Nghi (còn gọi là bà Phạm Thị Tuyết) trình bày rằng: ông Jacques Võ Khắc Minh có cho bà Phương tiền mua căn nhà 23B cư xá Đô Thành; căn nhà này là của bà Phương. Từ năm 1990, các bà đã chuyển về ở chung với bà Phương tại căn nhà này đến nay, nên không đồng ý với yêu cầu đòi nhà của ông Võ Khắc  Minh vì ông Võ Khắc Minh đã cho tiền, mà đòi lại là không hợp lý (có lúc bà Thảo lại xác nhận có nội dung là do nghe lời bà Phương nên đã “khai gian để sang đoạt cái nhà 23B cư xá Đô Thành”; mong bà Phương trả nhà cho ông Võ Khắc Minh).

    2. Ông Dương Ngọc Minh trình bày: ông Jacques Võ Khắc Minh gửi thuốc tây về cho bà Phương bán và bà Phương đã dùng số tiền này mua nhà cho cả gia đình cùng chung sống. Căn nhà 23B cư xá Đô Thành là của bà Phương.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số975/DS-ST ngày 26-6-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Xử: 1. Bác yêu cầu tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi nhà của ông Jacques Võ Khắc Minh đối với bà  Võ Thị Đông Phương tại căn nhà 23B đường số 1 cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Xác định căn nhà 23B đường số 1 cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Võ Thị Đông Phương.

    3. Giải toả và huỷ bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số881/QĐ-KBTS ngày 04-12-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc kê biên căn nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 26-6-2002, ông Jacques Võ Khắc Minh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số315/DS-PT ngày 11-12-2002, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    - Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 975/DSST ngày 26-6-2002.

    - Giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại sơ thẩm.

    - Hai bên đương sự không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số1035/2005/DS-ST ngày 24-5-2005, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    1. Xử chấp nhận 01 phần phần yêu cầu của ông Jacques Võ Khắc Minh và  01 phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Võ Thị Đông Phương về việc đòi quyền sở hữu nhà: 23B cư xá Đô Thành,  phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    2.  Xác định ngôi nhà 23B cư xá Đô Thành thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của ông Jacques Võ Khắc Minh và bà Võ Thị Đông Phương có giá trị tương đương 230,3 cây vàng, trong đó phần của bà Võ Thị Đông Phương được hưởng là 40 cây trị giá 326.000.000 đồng, phần của ông Minh được hưởng 45,23 cây (45,23 lượng vàng 9999); và thu Ngân sách Nhà nước là 145, 07 cây vàng.

    3. Giao cho bà Võ Thị Đông Phương sở hữu ngôi nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh; bà Võ Thị Đông Phương có trách nhiệm thanh toán cho ông Jacques Võ Khắc Minh số tiền là 368.624.500 đồng tương đương với 45,23 cây vàng làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành. Và bà Võ Thị Đông Phương phải nộp Ngân sách Nhà nước số tiền là 1.182.320.500 đồng, tương đương 145,07 lượng vàng 4 số 9.

    4. Kê biên căn nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo cho việc thi hành án.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 24-5-2005, ông Jacques Võ Khắc Minh kháng cáo và yêu cầu công nhận quyền sở hữu của ông đối với căn nhà 23B cư xá Đô Thành; ông đang hoàn tất thủ tục hồi hương; không đồng ý thanh toán tiền công sức cho bà Phương; không đồng ý nộp 145,07 lượng vàng cho Nhà nước.

    Ngày 30-5-2005, bà Võ Thị Đông Phương kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu công nhận quyền sở hữu của bà đối với căn nhà 23B cư xá Đô Thành.

    Ngày 20-9-2005, tại “đơn tường trình bổ sung yêu cầu kháng cáo”, bà Phương yêu cầu:

    1. Công nhận căn nhà 23B Cư xá Đô Thành do ông Jacques Võ Khắc Minh gửi tiền về để mua và xây dựng lại cho tất cả gia đình (gồm 4 chị em) được sở hữu, tức là nhà 23B cư xá Đô Thành là tài sản chung của 4 chị em bà; bà chỉ là người đại diện của chị em đứng tên chủ quyền căn nhà.

    2. Bà đã đóng tiền tạm ứng án phí (yêu cầu phản tố) yêu cầu ông Jacques Võ Khắc Minh phải trả lại cho bà số tiền mà ông Minh nợ 70.000 F (tiền Pháp) tương đương 40 lượng vàng, nhưng Toà án cấp sơ thẩm không giải quyết mà lại tách ra giải quyết  ở vụ kiện khác là gây thiệt hại cho bà.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 422/2005/PTDS ngày 28-10-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Căn cứ khoản 2 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự.

    - Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Jacques Võ Khắc Minh. Đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của ông Jacques Võ Khắc Minh.

    - Chấp nhận 1 phần yêu cầu kháng cáo của bà Võ Thị Đông Phương.

    Sửa án sơ thẩm.

    Áp dụng Điều 173, 175, 176, 263, 264 Bộ luật dân sự.

    - Bác yêu cầu đòi quyền sở hữu ngôi nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh của ông Jacques Võ Khắc Minh.

    - Xác định ngôi nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu chung của các ông bà: Võ Thị Đông Phương, Võ Thị Đông Thanh, Võ Thị Đông Thảo, Võ Thị Đông Nghi (Phạm Thị Tuyết) và Dương Ngọc Minh do bà Võ Thị Đông Phương đại diện đứng tên sở hữu.

    - Giải toả kê biên căn nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

    Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Jacques Võ Khắc Minh khiếu nại cho rằng ông không cho bà Phương tiền để xây nhà cho bà Phương và cả gia đình; bà Phương chỉ đứng tên mua giùm cho vợ chồng ông căn nhà 23B cư xá Đô Thành, nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại xác định ông đã cho bà Phương tiền để mua căn nhà nêu trên là không đúng, làm thiệt hại quyền lợi hợp pháp của ông.

    Tại Quyết định số137/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 10-9-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 422/2005/DSPT ngày 28-10-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số1035/2005/DS-ST ngày 24-5-2005 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm, để đảm bảo quyền lợi của các bên theo đúng quy định của pháp luật; đồng thời xem xét số tiền mà án sơ thẩm đã tuyên sung công quỹ nay còn phù hợp với đường lối giải quyết về người Việt Nam có quốc tịch nước ngoài, đầu tư mua bán bất động sản ở Việt Nam hay không? với nhận định (trích kháng nghị):

    Ông Võ Khắc Minh kiện bà Võ Thị Đông Phương đòi quyền sở hữu căn nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, ông Minh có chứng minh việc gửi tiền hàng từ Pháp về cho bà Phương mua nhà. Bà Phương xác nhận có nhận hàng (thuốc tây) và tiền France của ông Minh nhưng cho rằng ông Minh đã cho bà để mua nhà ở, nên bà đã đứng tên quyền sở hữu nhà mua trên. Xét lời khai của bà Phương không có tài liệu chứng minh.

    Căn cứ những lá thư của bà Phương gửi cho ông Minh thông báo về việc mua nhà, xây dựng nhà, nội dung báo cáo chi tiết chi từng khoản tiền: đặt cọc mua nhà, giá mua, để ông Minh quyết định, giao cho bà Phương thực hiện (từ BL156 đến 161). Khi xây dựng lại nhà ông Minh trực tiếp làm hợp đồng, có cả ông và bà Phương cùng đứng tên trong hợp đồng để ký kết với chủ đầu tư (BL169-176).

    Bản án sơ thẩm số 1035/2005/DSST ngày 24-5-2005 của TAND TP.HCM xử, xác định nhà thuộc quyền sở hữu chung của ông Minh và bà Đông Phương là có căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự. Không đồng ý với án sơ thẩm, ông Minh, bà Phương đều kháng cáo.

    Ở giai đoạn phúc thẩm, ông Minh đã được Toà án triệu tập 2 lần để tham gia tố tụng, nhưng vắng mặt, Toà án phúc thẩm đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo của ông Minh là đúng khoản 2 Điều 266 BLTTDS, nội dung, Toà phúc thẩm chỉ căn cứ bức thư ông Minh viết có nội dung gửi tiền về cho cả gia đình để làm ăn ở thành phố Hồ Chí Minh, đã sửa bản án sơ thẩm: xử bác yêu cầu của ông Minh về quyền sở hữu nhà. Công nhận nhà 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thuộc sở hữu chung của bà Phương và các ông bà Võ Thị Đông Thảo, Đông Nghi, Đông Thanh và Dương Ngọc Minh là không đúng, vì các em của ông Minh và bà Phương tuy có tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng họ không có tranh chấp về quyền lợi đối với nhà trên, sau khi xét xử sơ thẩm họ đều không kháng cáo, nhưng án phúc thẩm đã xét xử tuyên họ có quyền lợi trong căn nhà tranh chấp là vi phạm Điều 276 BLTTDS”.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Về tố tụng:

    Ngày 04-10-2001 ông Jacques Võ Khắc Minh vừa có đơn khởi kiện đòi nhà cho ở nhờ vừa có đơn khởi kiện “về việc tranh chấp nhà”. Về thực chất, đây là tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở, nên không thuộc trường hợp áp dụng khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số58/1998/NQ-UBTVQH-10 ngày 24-8-1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 và Nghị quyết số1037/2006/NQ-UBTVQH-11 ngày 27-7-2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà ở là đúng thẩm quyền.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, cả ông Jacques Võ Khắc Minh và bà Võ Thị Đông Phương đều có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Như vậy, kháng cáo của ông Võ Khắc Minh có liên quan đến kháng cáo của bà Phương (phần kháng cáo của ông Minh không độc lập với nội dung kháng cáo của bà Phương). Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng ông Võ Khắc Minh đã được triệu tập hợp lệ 3 lần mà vẫn vắng mặt (xin hoãn phiên tòa) để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của ông Minh, là không đúng.

    Về nội dung:

    Có cơ sở xác định ông Jacques Võ Khắc Minh từ cộng hòa Pháp đã gửi thuốc tây về Việt Nam cho em ruột là bà Võ Thị Đông Phương bán, lấy tiền mua nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh của bà Phạm Thị Thân và 3 người con là anh Nguyễn Trọng Tuyên, chị Nguyễn Thị Hoa và anh Nguyễn Trí Tuệ vào ngày 19-9-1989 (bà Phương đứng tên tại giấy mua bán nhà viết tay; vợ chồng cụ Lê Văn Cầm, cụ Nguyễn Thị Một đứng tên giùm bà Phương tại “Văn tự mua bán nhà”; ngày 03-4-1990 vợ chồng cụ Một đã sang tên lại quyền sở hữu nhà cho bà Phương bằng hình thức tặng giữ nhà). Sau đó, ngày 19-3-1990 bà Phương đã ký hợp đồng thuê ông Võ Thanh Liêm xây dựng lại căn nhà, nhưng ông Võ Khắc Minh không đồng ý nên ngày 05-4-1990 các bên phải ký lại “Hợp đồng thi công” (bà Phương đại diện bên giao công trình; ông Võ Khắc Minh và bà Phương đã ký tại mục bên A là bên giao công trình).

    Trước khi mua nhà, bà Phương viết thư cho ông Võ Khắc Minh (ngày 11-02-1989) có nội dung: “...Em ước mong những gì anh mong muốn sớm hoàn thành. Chị và cháu sẽ có nơi cho sau này về được thoải mái. Hay về luôn. Lá rụng về cội chứ sao anh. Cháu về nội phải rồi...”. Khi đã mua nhà, bà Phương gửi thư cho ông Minh thông báo về việc phá nhà cũ, khởi công xây dựng nhà mới và thời gian đổ nóc nhà (cụ thể là:  “cái nhà đã đập phá, 16/4 khởi công”, thư ngày 15-4-1990; “nếu anh thấy tiện thì gửi thuốc về cho em đủ cất nhà”, thư ngày 16-4-1990; “cái nhà, 15/5 này bắt đầu đổ 1 nóc”, thư không đề ngày tháng năm). Sau khi xây dựng xong nhà, bà Phương còn gửi cho ông Võ Khắc Minh bản tính toán ghi rõ số tiền mua nhà 17 lượng, cất lại nhà 28 lượng, cộng là 45 lượng vàng; còn thiếu 10 lượng (ông Minh đã gửi thuốc về cho bà Phương bán và đã trả xong số vàng còn thiếu này).

    Trong quá trình mua nhà và xây dựng nhà nêu trên, vợ chồng ông, bà Sanh (ông Dương Chí Sanh và bà Huỳnh Thị Nga) có biết. Tại thư gửi cho ông Võ Khắc Minh ngày 22-6-1990, ông Sanh thông báo là: “nhà đang xây”... “về phẩm chất công trình tôi thấy rất tốt”...“Jacques yên trí”. Tại lời khai ngày 05-7-2004, bà Huỳnh Thị Nga (nhân chứng) khai rằng “ông Minh mua căn nhà nêu trên với mục đích cho em út có nơi ở”.

    Tuy nhiên, có hay không có việc ông Minh cho hẳn bà Phương tiền bán thuốc để mua căn nhà nêu trên? có hay không có việc ông Minh gửi thuốc về bán để mua nhà cho các em? có việc ông Minh nhờ bà Phương mua nhà và đứng tên giùm hay không? hay mua nhà cho các em ở nhờ? Các tài liệu trong hồ sơ vụ án chưa thể hiện đầy đủ các nội dung nêu trên và lời khai của các đương sự còn nhiều mâu thuẫn, cụ thể là:

     Bà Phương lúc thì khai ông Minh gửi thuốc về cho bà bán, lấy tiền mua nhà và xây nhà cho các anh em ở Việt Nam ở và làm ăn; lúc khai là mua nhà, sau này ông Minh cũng về Việt Nam ở; lúc thì khai ông Minh cho bà tiền bán thuốc và bà mua nhà nên nhà của bà; lúc thì khai ông Minh gửi tiền về để mua nhà và xây dựng lại nhà cho gia đình (gồm 4 chị em) được sở hữu. Bà Võ Thị Đông Thảo đã có lúc xác nhận là nghe lời bà Phương nên đã “khai gian để sang đoạt cái nhà 23B cư xá Đô Thành”; mong bà Phương trả nhà cho ông Võ Khắc Minh. Bà Võ Thị Đông Thanh đã có lúc viết thư (ngày 12-9-2000) hướng dẫn ông Võ Khắc Minh kiện bà Phương vì bà Phương có ý muốn sang đoạt căn nhà của ông Minh. Có lúc bà Thảo, bà Võ Thị Đông Nghi và ông Dương Ngọc Minh lại xác nhận căn nhà 23B cư xá Đô Thành là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Phương.

    Bà Thân và 3 người con là người bán nhà (năm 1989) nhưng chưa được Toà án lấy lời khai khi giải quyết vụ án. Toà án cấp sơ thẩm xác định căn nhà 23B cư xá Đô Thành thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của ông Võ Khắc Minh và bà Phương là chưa đủ căn cứ; mặt khác, lại tuyên tịch thu (thu vào ngân sách Nhà nước) 145,07 lượng vàng (tổng trị giá nhà đất là 230,3 lượng, trong đó công sức đóng góp của bà Phương là 40 lượng; phần tiền gốc của ông Minh là 45,23 lượng, phần tiền chênh lệch là 145,07 lượng), là không có căn cứ pháp lý. Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét, đánh giá việc ông Võ Khắc Minh cùng bà Phương ký hợp đồng giao nhận thi công xây lại căn nhà; bản tính toán số tiền mua nhà và xây dựng lại nhà mà bà Phương đã gửi cho ông Minh; mâu thuẫn trong lời khai của bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; lời khai của những người làm chứng (bà Huỳnh Thị Nga; ông Nguyễn Thanh Định…) và nội dung các thư của bà Phương gửi cho ông Minh trước khi mua nhà. Đồng thời, chưa yêu cầu bà Phương xuất trình và làm rõ nội dung thư ông Võ Khắc Minh viết cho bà Phương ngày 19-01-1989 (vì trong thư gửi cho ông Minh ngày 11-02-1989, bà Phương ghi đã rõ: “những đề mục anh gợi ý trong thư thứ 3 19-01-1989 em lưu ý...”) và các thư bà Phương gửi cho ông Minh sau khi mua nhà như đã nêu trên; mà lại căn cứ vào 2 lá thư của ông Minh (có nội dung là: ông Minh gửi thuốc tây về không chỉ tài trợ cho bà Phương mà cho cả gia đình, thư ngày 16-10-1998) và “sắm nhà để cho tất cả gia đình có dịp làm ăn dễ hơn khi ở SGthư ngày 05-4-2000) không thể hiện việc ông Minh mua nhà cho hẳn các chị em bà Phương. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm bác yêu cầu của ông Minh, xác định nhà thuộc sở hữu chung của  các ông bà: Võ Thị Đông Phương, Võ Thị Đông Thanh, Võ Thị Đông Thảo, Võ Thị Đông Nghi (Phạm Thị Tuyết) và Dương Ngọc Minh (trong khi đó bà Thanh tham gia tố tụng ở vụ án này với tư cách là nhân chứng), là thiếu căn cứ.

    Vì vậy cần phải giải quyết lại vụ án, để yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu chứng minh, làm rõ: nếu có căn cứ xác định ông Minh gửi thuốc về để bà Phương bán rồi mua nhà cho chung cả gia đình thì công nhận nhà thuộc sở hữu chung; nếu có căn cứ xác định được ông Minh gửi thuốc về để nhờ bà Phương bán rồi mua nhà hộ thì xác định số tiền gốc mua nhà là của ông Minh, phần giá trị chênh lệch so giá lúc mua thì chia đôi cho ông Minh và bà Phương.

    Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, 

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 422/2005/DSPT ngày 28-10-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số1035/2005/DS-ST ngày 24-5-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa nguyên đơn là ông Jacques Võ Khắc Minh với bị đơn là bà Võ Thị Đông Phương; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Mauricette Võ Khắc Minh (tên gọi khác Barabas), bà Võ Thị Đông Thảo, bà Võ Thị Đông Nghi (Phạm Thị Tuyết), ông Dương Ngọc Minh.

     2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.     

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Cần xét xử sơ thẩm lại theo hướng xác định rõ nguyên đơn yêu cầu bị đơn mua nhà cho cả gia đình dùng chung hay nhờ bị đơn đứng tên hộ để giải quyết vụ án cho đúng pháp luật.

     
    5759 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận