Số hiệu
|
16/2007/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng ủy quyền và đòi lại nhà ở"
|
Ngày ban hành
|
06/06/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 06 tháng 7 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp hợp đồng uỷ quyền và đòi lại nhà ở” giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Văn Tuyết Hảo sinh năm 1938; trú tại: nhà số 91 đường 30/4, phường 3, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre (Địa chỉ mới: 104/2 ấp Tân Đông, xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
Bị đơn: Ông Văn Yến Tuấn sinh năm 1958; trú tại: nhà số 2/2 đường Trần Quốc Tuấn, phường 4, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thanh Vân sinh năm 1966 (vợ của ông Văn Yến Tuấn); trú tại: nhà số 2/2 đường Trần Quốc Tuấn, phường 4, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
2. Các anh, chị: Mạc Tùy Bá sinh năm 1967; Mạc Tùy Ý sinh năm 1968; Mạc Tùy Tài sinh năm 1969; Mạc Mỹ Linh sinh năm 1971; Mạc Tùy Trí sinh năm 1975.
Các anh, chị Bá, Ý, Tài, Linh, Trí là con của bà Văn Tuyết Hảo và ông Mạc Huê Văn cùng trú tại Hoa Kỳ và đồng uỷ quyền cho bà Văn Tuyết Hảo đại diện để giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
NHẬN THẤY:
Căn nhà đang tranh chấp đang toạ lạc tại số 2/2 (số cũ 225/2) đường Trần Quốc Tuấn, phường 4, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre có nguồn gốc là của bà Văn Tuyết Hảo (bà Hảo được Sở Xây dựng tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ngày 24-02-1994).
Ngày 08-01-1995 (trước khi xuất cảnh sang Mỹ) bà Văn Tuyết Hảo lập “giấy uỷ quyền” cho bà Văn Cần (là mẹ bà Hảo) và ông Văn Yến Tuấn (là em trai bà Hảo) quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích căn nhà nêu trên với điều kiện: Không được bán, cho thuê hay cầm cố; quá trình sử dụng chỉ được sửa chữa nhỏ và khi nào bà Hảo và các con của bà Hảo có dịp hồi hương sẽ thu hồi việc uỷ quyền này. “Giấy uỷ quyền” có chữ ký của bà Văn Cần, của ông Văn Yến Tuấn, bà Văn Tuyết Hảo và có xác nhận của Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh Bến Tre.
Trước đó, ngày 10-12-1994 bà Hảo đã ký đơn cho bà Văn Cần được sở hữu căn nhà nêu trên có xác nhận ngày 17-12-1994 của Uỷ ban nhân dân phường 4, thị xã Bến Tre (nơi bà Hảo cư trú) và có xác nhận ngày 20-12-1994 của Uỷ ban nhân dân phường 4, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre (nơi bà Văn Cần cư trú). Bà Hảo không thừa nhận đã ký trong đơn cho nhà, nhưng tại bản giám định số 2673/C21B ngày 27-11-2000, Phân viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát Bộ Công an đã kết luận chữ ký trong đơn cho nhà là của bà Hảo.
Ngày 09-01-1995 bà Văn Tuyết Hảo và chồng là ông Mạc Huê Phan lại ký giấy chuyển quyền sử dụng đất cho bà Văn Cần (giấy này không có xác nhận của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào).
Ngày 08-10-1999 bà Hảo có đơn xin huỷ bỏ “Giấy uỷ quyền” ghi ngày 08-01-1995.
Ngày 17-4-2000 Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã căn cứ vào đơn xin sang tên cho nhà ghi ngày 10-12-1994 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Văn Cần.
Ngày 18-5-2000 bà Hảo có đơn yêu cầu đòi lại nhà có yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Văn Cần.
Ngày 22-7-2002 bà Hảo khởi kiện yêu câu huỷ hợp đồng uỷ quyền; buộc ông Văn Yến Tuấn trả lại nhà cho bà.
Bị đơn ông Văn Yên Tuấn thừa nhận căn nhà đang tranh chấp là của bà Văn Tuyết Hảo, nhưng ông cho rằng ngày 10-12-1994 bà Hảo đã cho bà Văn Cần (là mẹ của bà Hảo và ông) sở hữu ngôi nhà trên. Ông và bà Văn Cần đã ở và sử dụng căn nhà từ tháng 01-1995. Ngày 30-11-2000 bà Văn Cần chết, ông tiếp tục quản lý, sử dụng. Quá trình sử dụng ông đã sửa chữa, xây dựng thêm các bức tường mới để sử dụng căn nhà thành 3 cửa hiệu, thay đổi toàn bộ kết cấu căn nhà. Theo lời khai của ông Tuấn thì số tiền ông chi phí vào việc sửa chữa nhà này hết 170 triệu đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 18-10-2002 ông Tuấn có đơn phản tố cho rằng bà Hảo đã cho bà Văn Cần căn nhà nên không có quyền đòi lại toàn bộ căn nhà này, mà coi đây là tài sản của bà Văn Cần để lại, yêu cầu chia thừa kế.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số05/2005/DS-ST ngày 21-11-2005, Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định:
Áp dụng các điều 587, 690, 697 và 711 Bộ luật dân sự; Điều 121 Luật Đất đai; Điều 3 và Điều 5 Nghị định số81/2001/NĐ-CP ngày 05-11-2001 của Chính phủ, tuyên xử:
- Bác yêu cầu cầu của bà Văn Tuyết Hảo về việc huỷ hợp đồng uỷ quyền và đòi lại ngôi nhà số 2/2 đường Trần Quốc Tuấn, phường 4, thị xã Bến Tre;
- Án phí dân sự sơ thẩm bà Văn Tuyết Hảo phải nộp 7.800.000đ;
- Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo xin Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Ngày 21-11-2005 bà Văn Tuyết Hảo kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 161/2006/DSPT ngày 09-05-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; sửa bản án sơ thẩm số 05/2005/DSST ngày 21-11-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bên Tre như sau:
Áp dụng Điều 587, khoản 5 Điều 589 và khoản 2 Điều 592 Bộ luật dân sự năm 1995; tuyên xử:
1. Huỷ hợp đồng uỷ quyền ngày 08-01-1995 giữa bà Văn Tuyết Hảo và ông Văn Yến Tuấn (vì thời hạn uỷ quyền đã hết hiệu lực).
2. Bên (được uỷ quyền) ông Văn Yến Tuấn phải giao căn nhà và đất số 2/2 (số cũ 225/2) đường Trần Quốc Tuấn cho bà Văn Tuyết Hảo (bên uỷ quyền) bà Hảo được toàn quyền sở hữu nhà, sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 49/CNXD cấp ngày 24-02-1994.
3. Bên giao nhà phải giữ nguyên hiện trạng như hiện nay.
- Việc giao nhận nhà do cơ quan thi hành án giám sát thực hiện.
- Thời gian thực hiện giao nhà khi bà Hảo có đơn yêu cầu thi hành án và cơ quan thi hành án sẽ quyết định ngày giờ tổ chức thực hiện (nếu bên phải giao nhà không tự nguyện thi hành án).
4. Bà Hảo không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm và không phải nộp án phí dân sự theo giá ngạch.
- Ông Tuấn phải nộp án phí theo giá ngạch là 7.800.000 đồng.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Văn Yến Tuấn có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dụng Toà án hai cấp xét xử không khách quan, có nhiều sai sót về tố tụng.
Tại quyết định số36/2007/KN-DS ngày 21-3-2007, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên với nhận định có nội dung:
Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ ý chí của bà Hảo về việc cho nhà hay chỉ uỷ quyền đã kết luận bà Hảo thay đổi ý kiến không cho bà Văn Cần nhà số 2/2 đường Trần Quốc Tuấn, phường 4, thị xã Bến Tre là chưa đủ căn cứ vững chắc.
Tại biên bản nghị án ngày 09-5-2006 của Toà án cấp phúc thẩm có ghi ý kiến của Hội đồng xét xử là: “ông Tuấn không yêu cầu phản tố nên không phải nộp án phí theo giá ngạch”; nhưng tại bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử lại quyết định buộc ông Tuấn phải nộp 7.800.000 đồng tiền án phí do yêu cầu phản tố không được chấp nhận. Như vậy là vi phạm pháp luật về tố tụng dân sự vì ra quyết định không đúng với nội dung biên bản nghị án.
Mặt khác, về vấn đề bồi thường chi phí sửa chữa, xây dựng trong quá trình ông Tuấn quản lý nhà, ông Tuấn có yêu cầu; tại phiên Toà phúc thẩm bà Văn Tuyết Hảo đồng ý bồi thường cho ông Tuấn một nửa 170 triệu đồng trong đó số chi phí xây dựng, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận mà căn cứ vào ý kiến của ông Tuấn trong giai đoạn tranh luận để cho rằng ông Tuấn không yêu cầu thanh toán chi phí xây dựng nữa và quyết định buộc ông Tuấn giao trả nhà cho bà Hảo là không hợp lý, hợp tình.
Ngoài ra, theo bản án phúc thẩm và theo biên bản nghị án thì ngày xét xử là ngày 09-5-2006; nhưng theo biên bản phiên Toà phúc thẩm thì ngày xét xử là ngày 10-5-2006, là thể hiện không thống nhất về ngày tiến hành phiên Toà phúc thẩm.
Ngày 06-4-2007 bà Văn Tuyết Hảo có đơn khiếu nại với nội dung không đồng ý với kháng nghị và cho rằng: Toà án nhân dân tối cao căn cứ vào đơn xin sang tên cho nhà ngày 10-12-1994 giữa bà Văn Cần và bà Văn Tuyết Hảo để ra quyết định kháng nghị là thiếu căn cứ, làm thiệt hại đến quyền lợi của bà.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án sơ thẩm số05/2005/DS-ST ngày 21-11-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre và bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật
XÉT THẤY:
1. Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án về việc giao dịch nhà đất giữa bà Văn Tuyết Hảo với bà Văn Cần và ông Văn Yến Tuấn được thể hiện trong 3 tài liệu sau đây:
- Đơn xin sang tên cho nhà ngày 10-12-1994, có Uỷ bản nhân dân phường xác nhận.
- Giấy uỷ quyền ngày 08-01-1995, có chứng thực của phòng công chứng tỉnh Bến Tre.
- Giấy chuyển quyền sử dụng đất ngày 09-01-1995, không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Xem xét ba tài liệu này cho thấy giấy uỷ quyền ngày 08-01-1995 giữa bà Văn Tuyết Hảo (người uỷ quyền) đối với người nhận uỷ quyền là bà Văn Cần và ông Văn Yến Tuấn được lập sau khi có đơn xin sang tên cho nhà ngày 10-12-1994. Về mặt pháp lý giấy uỷ quyền này là hợp pháp, vì các các bên tự nguyện ký và chứng thực trước công chứng Nhà nước. Đối với giấy chuyển quyền sử dụng đất ngày 09-01-1995 được viết tay, không có xác nhận hoặc chứng thực của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào; do đó, giấy này không hợp pháp về hình thức. Trong quá trình giải quyết vụ án Toà án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ vì sao bà Hảo đã làm giấy cho nhà ngày 10-12-1994, sau đó lại thay đổi làm giấy uỷ quyền ngày 08-01-1995, ý chí của bà Hảo khi lập các giấy tờ này trước khi xuất cảnh, để xác định quyền sở hữu của ngôi nhà là sai lầm.
2. Theo hồ sơ vụ án, ngày 18-10-2002 ông Văn Yến Tuấn có đơn phản tố yêu cầu chia tài sản thừa kế đối với căn nhà tranh chấp và ông Tuấn đã nộp tiền tạm ứng án phí với số tiền là 2.785.500 đồng, nhưng Toà án các cấp chưa xem xét và giải quyết về vấn đề này là vi phạm Điều 176 Bộ luật tố tụng dân sự, làm thiệt hại đến quyền lợi của ông Tuấn.
3. Về án phí, Tại biên bản nghị án ngày 09-05-2006 của Toà án cấp phúc thẩm có ghi ý kiến của Hội đồng xét xử là: “Ông Tuấn không yêu cầu phản tố nên không phải nộp án phí theo giá ngạch”; nhưng tại bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử lại quyết định buộc ông Tuấn phải nộp 7.800.000 đồng tiền án phí do yêu cầu phản tố không được chấp nhận. Quyết định này của Toà án cấp phúc thẩm đã có sai lầm nghiêm trọng, vi phạm khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự (ra quyết định không đúng với nội dung biên bản nghị án).
4. Về khoản tiền chi phí sửa chữa nhà, tại phiên toà sơ thẩm hai bên thoả thuận số tiền ông Tuấn chi phí sửa chữa nhà là 170 triệu đồng, nhưng tại phiên Toà phúc thẩm, bà Hảo chỉ đồng ý trả ông Tuấn 1/2 của số tiền sửa chữa nêu trên, ông Tuấn không nhận. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không làm rõ là ông Tuấn không nhận hay không yêu cầu bồi thường. Nếu ông Tuấn không yêu cầu thì Toà án không giải quyết ở vụ án này là đúng, nhưng phải nhận định tách ra ở vụ kiện khác khi các bên đương sự yêu cầu.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 161/2006/DSPT ngày 09-5-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số05/2005/DS-ST ngày 21-11-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre về vụ án “tranh chấp hợp đồng uỷ quyền và đòi lại nhà ở” giữa nguyên đơn là bà Văn Tuyết Hảo với bị đơn là ông Văn Yến Tuấn.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa làm rõ ý chí của chủ sở hữu khi đã làm “giấy cho nhà” sau lại đổi là “giấy uỷ quyền”; chưa xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn; quyết định của bản án không phù hợp với biên bản nghị án; không làm rõ bị đơn không nhận hay không yêu cầu bồi thường.