Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Trang Hội phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"

Chủ đề   RSS   
  • #265208 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Trang Hội phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"

    Số hiệu

    24/2007/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Trang Hội phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"

    Ngày ban hành

    13/09/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    ……..

    Ngày 13 tháng 9 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với: 

    Trang Hội sinh năm 1957; trú tại số nhà 166/3A, khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Trang Phát (đã chết) và bà Trần Thị Thình; có vợ và 3 con; bị bắt giam ngày 31-7-2000.

    Người bị hại: ông Vương Phước Lâm và bà Trần Bách Niên, cùng trú tại D226, tổ 39, khu phố Bình Đức, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Hương (vợ Trang Hội) và bà Lý Thị Biếu (mẹ chị Hương); cùng trú tại số nhà 166/3A, khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 02-7-2000, vợ chồng ông Vương Phước Lâm và bà Trần Bách Niên làm đơn tố cáo Trang Hội vì đã có những hành vi lừa đảo như sau:

    Năm 1997, Trang Hội thường đứng ra đại diện cho một số người kiện đòi đất trong các vụ tranh chấp đất đai ở địa phương. Qua sự giới thiệu của ông Vương Hưng Tường (em trai ông Lâm), ông Lâm nhờ Hội lo việc kiện đòi giải quyết đền bù mảnh đất 18.705 m2 tại xã Thuận Giao, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương do ông Lâm mua năm 1974 nhưng Nhà nước thu hồi để quy hoạch xây dựng sân gôn mà chưa đền bù cho ông Lâm.

    Trong quá trình quen biết, Hội còn nói chủ cũ của mảnh đất mà hiện nay gia đình ông Lâm sử dụng để làm lò gốm đang có ý kiện đòi đất nên nói với ông Lâm rằng Hội sẽ đi trích lục địa bộ để kiểm tra. Sau đó, Hội đưa cho ông Lâm xem 1 tờ mua bán đất giữa ông Ngô Khai và ông Vương Hán Thành là cha ông Lâm (thực chất giấy này là do Hội tự viết) và khuyên ông Lâm đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ sổ bìa trắng sang sổ bìa đỏ để tránh tranh chấp. Theo gia đình ông Lâm thì đã giao cho Hội 25.000.000 đồng (không làm biên nhận) để Hội đi lo đổi sổ đất nhưng đến nay vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận bìa đỏ.

    Mảnh đất của ông Lâm mà Nhà nước thu để quy hoạch làm sân gôn vẫn chưa được đền bù nhưng Hội nói sẽ được Nhà nước đổi cho 1 khu đất khác (diện tích 19.000 m2) cạnh quốc lộ 13 ở khu vực xã Thuận Giao, huyện Thuận An và phải bù thêm 70.000.000 đồng tiền chênh lệch, Hội còn dẫn ông Lâm đi xem mảnh đất này. Ngoài ra, Hội nói ông Lâm đưa 10.000.000 đồng để Hội lo đi sang tên, đổi sổ mảnh đất trên. Ông Lâm đồng ý. Để tạo lòng tin, Hội cho Trang Nguyễn Xuân Uyên (con gái Hội) viết giấy "Biên nhận tiền đổi sổ đất" ngày 04-4-1998, trong đó Hội đã ký nhận trước 5.000.000 đồng để đổi sổ đỏ, 5.000.000 đồng còn lại sẽ nhận khi giao sổ đỏ cho ông Lâm. Sau đó, Hội làm giả 1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số L227004) cho mảnh đất diện tích 19.000 mvà chỉ đưa cho ông Lâm xem rồi lấy lại. Theo gia đình ông Lâm thì đã giao cho Hội 70.000.000 đồng tiền bù đổi đất và 5.000.000 đồng tiền làm sổ đỏ còn thiếu lúc trước, tổng số là 75.000.000 đồng (khoản tiền này không có biên nhận).

    Sau đó, ông Lâm tiếp tục nhờ Hội làm thủ tục mở lò gốm. Hội nói dối Nhà nước không cho xây dựng lò gốm cạnh đường quốc lộ và khuyên ông Lâm mua mảnh 14.000 m2 ở phiá sau miếng đất 19.000 m2 trên để mở lò gốm. Ông Lâm đồng ý và nhiều lần đưa tiền để Hội mua nhà đất và làm giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất 14.000 m2. Theo lời khai phía gia đình ông Lâm thì đã đưa cho Hội 850.000.000 đồng nhưng không làm biên nhận (trong đó 800.000.000 đồng là tiền mua đất, 50.000.000 đồng là tiền mua nhà trên đất). Hội làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số L227003) cho diện tích đất 14.000 m2mang tên ông Vương Phước Lâm và đưa cho ông Lâm xem rồi giữ lại.

    Thực tế 2 mảnh đất mà Hội đã chỉ cho ông Lâm xem là của 3 người: bà Nguyễn Thị Nghĩa, bà Phạm Minh Hoà và bà Vương Kim Châu. Những người này không hề chuyển nhượng đất cho bất kỳ ai. Khoảng tháng 4 năm 1999, bà Vương Kim Châu đổ đất, san ủi mặt bằng, xây tường rào, làm cửa sắt, trồng trụ điện, hạ bình điện trên phần đất mà bà Châu đứng tên. Hội đến gặp ông Lâm và nói dối ông Lâm việc bà Châu đang làm là để chuẩn bị làm nhà kho và làm lò gốm theo yêu cầu của ông Lâm, nên Hội yêu cầu ông Lâm đưa tiền để thực hiện công việc. Do tin tưởng Hội và đi kiểm tra thấy trên đất có những việc như Hội đã nói nên ông Lâm đã nhiều lần đưa tiền cho Hội, thể hiện qua 3 phiếu thu với tổng số tiền là 122.000.000 đồng.

    Theo lời khai của gia đình người bị hại thì số tiền đã đưa cho Hội tổng cộng là 1.762.000.000 đồng (trong đó bao gồm cả những khoản tiền giao có lập biên nhận và những khoản không lập biên nhận). Năm 2000, ông Lâm ốm nằm viện nên Hội trực tiếp gọi điện cho bà Niên yêu cầu đưa 30.000.000 đồng để gắn đồng hồ điện nhưng bà Niên không đưa.

    Khoảng tháng 5-2000, do bà Niên yêu cầu nên Hội đưa toàn bộ giấy tờ đất và hồ sơ xây dựng lò gốm và nhà kho cho bà Niên. Bà Niên giao cho người quen để nhờ làm thủ tục mở lò gốm. Khi anh Phạm Công Lý (cán bộ Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Bình Dương) tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra và phát hiện toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Hội giao cho bà Niên là giả, đồng thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, bà Niên biết sự thật và đã tố cáo hành vi của Trang Hội.

    Trong quá trình giải quyết vụ án, Trang Hội kêu oan, cho rằng không nhận bất kỳ khoản tiền nào của gia đình ông Lâm và bà Niên.

    Để có căn cứ giải quyết vụ án, cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định các tài liệu Trang Hội giao cho gia đình bà Trần Bách Niên gồm: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L227003, L227004; các phiếu thu tiền; giấy biên nhận tiền đổi sổ đất, và đã kết luận: các con dấu và chữ ký tại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã đưa cho bà Niên là giả; chữ ký Trang Hội nhận tiền tại tờ “Biên nhận tiền đổi sổ đất” ngày 04-4-1998 và chữ viết trên các phiếu thu tiền là chữ viết của Trang Hội.

    Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành kê biên tài sản của Trang Hội, trong đó có “... căn nhà số 166/3A toạ lạc trên đường quốc lộ số 13, khu phố Long Thới... nhà do bà Lý Thị Biếu đứng quyền sở hữu, trong đó có một phần góp vốn xây dựng, sửa chữa của gia đình bị can” (tại biên bản kê biên tài sản ngày 16-01-2001).           

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/HSST ngày 12-01-2004, Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương áp dụng khoản 4 Điều 139; khoản 1 Điều 267; Điều 50 Bộ luật hình sự 1999, xử phạt Trang Hội 18 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", 02 năm tù về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức", buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội là 20 năm tù; buộc bồi thường cho người bị hại 977.000.000 đồng; tiếp tục kê biên các tài sản của bị cáo để đảm bảo thi hành án, trong đó có căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.

    Ngày 12-01-2004, Trang Hội kháng cáo kêu oan.

    Ngày 16-01-2004, chị Nguyễn Thị Hương (vợ bị cáo) kháng cáo xin miễn án phí dân sự, xin xem xét lại phần kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới vì đây là nhà đất của bà Lý Thị Biếu (mẹ chị Hương).

    Ngày 20-02-2004, bà Biếu cũng kháng cáo phần quyết định kê biên căn nhà số 166/3A nói trên.

     Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1341/HSPT ngày 08-6-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm, tuyên “Tiếp tục kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương”.

    Tại Quyết định kháng nghị số15/2007/HS-TK ngày 05-6-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 1341/HSPT ngày 08-6-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 02/HSST ngày 12-01-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương về phần quyết định “Tiếp tục kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương”; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Quyết định kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/HSST ngày 12-01-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương và bản án hình sự phúc thẩm số 1341/HSPT ngày 08-6-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh là không có căn cứ. Trong quá trình điều tra, Trang Hội có nhiều lời khai thể hiện tài sản của vợ chồng Hội có cả căn nhà số 166/3A nêu trên nhưng do mẹ vợ là bà Lý Thị Biếu đứng tên. Tuy nhiên, tại một số lời khai khác và tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đều khai căn nhà này thuộc sở hữu của bà Biếu. Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu như: bản sao có công chứng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trên đất xây căn nhà 166/3A nêu trên) cấp ngày 29-7-1998 và bản sao có công chứng giấy công nhận quyền sở hữu căn nhà này do Ủy ban nhân dân tỉnh Sông Bé cấp ngày 07-7-1992 đều mang tên bà Lý Thị Biếu. Mặt khác, bà Biếu khai căn nhà 166/3A là do bà đứng tên chủ sở hữu, sau đó bà bán một phần đất của căn nhà này cho ông Lại Văn Hùng để lấy tiền sửa chữa nhà 166/3A (BL623). Lời khai của bà Biếu phù hợp với lời khai của ông Hùng, rằng năm 1996 ông mua đất của bà Biếu để xây nhà (hiện nay căn nhà của ông mang số 166/3B khu phố Long Thới), do bà Biếu trực tiếp bán đất (BL 624). Chị Nguyễn Thị Hương (con gái bà Biếu) có nhiều lời khai thể hiện căn nhà số 166/3A nêu trên do bà Biếu mua từ năm 1960 và đứng tên chủ sử dụng cho tới nay, vợ chồng chị và Trang Hội chỉ góp 30 triệu đồng để nâng cấp nhà (BL 213).

    Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh rõ chủ sở hữu, mà nhận định căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương là tài sản chung của vợ chồng Trang Hội và chị Nguyễn Thị Hương trong thời kỳ hôn nhân, nên đã tuyên tiếp tục kê biên để đảm bảo thi hành án là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Biếu. Nếu căn nhà này của bà Biếu thì cũng chưa xác minh công sức đóng góp của vợ chồng Trang Hội trong việc sửa chữa, nâng cấp căn nhà. Tòa án cấp phúc thẩm đã không phát hiện và sửa chữa sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm nên vẫn tuyên tiếp tục kê biên căn nhà số 166/3A này là vi phạm quy định tại Điều 146 Bộ luật tố tụng hình sự về kê biên tài sản. Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ tuyên “Tiếp tục kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương” mà không nói rõ kê biên để làm gì là không chính xác.

    Về thủ tục tố tụng, bà Lý Thị Biếu đứng tên chủ sử dụng mảnh đất số 166/3A như đã nêu trên, nhưng Toà án cấp sơ thẩm lại không xác định bà Biếu là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nên bà Biếu không có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự là vi phạm pháp luật tố tụng và ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Biếu. Toà án cấp phúc thẩm đưa bà Biếu tham gia phiên toà với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng lại nhận xét đơn kháng cáo của bà Biếu quá hạn nên không xem xét mà chỉ tham khảo. Mặt khác, chị Nguyễn Thị Hương trong đơn kháng cáo đã đề nghị xem xét lại phần án phí và phần kê biên căn nhà này, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm chỉ nhận xét về phần án phí mà không xem xét đến phần kháng cáo của chị Hương về việc kê biên nhà là bỏ sót kháng cáo.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 1341/HSPT ngày 08-6-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm số 02/HSST ngày 12-01-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương về phần quyết định “Tiếp tục kê biên căn nhà số 166/3A khu phố Long Thới, thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương”; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    2. Các quyết định khác của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy một phần:

    Tòa án cấp sơ thẩm quyết định kê biên tài sản mà không xác minh rõ ai là chủ sở hữu tài sản; Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của cấp sơ thẩm, tiếp tục kê biên tài sản mà không nói rõ kê biên nhằm mục đích gì là vi phạm pháp luật.

     

     
    3562 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận