Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Văn Út bị xét xử về tội "Tham ô tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265248 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Văn Út bị xét xử về tội "Tham ô tài sản"

    Số hiệu

    02/2008/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Nguyễn Văn Út bị xét xử về tội "Tham ô tài sản"

    Ngày ban hành

    03/03/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    ……..

    Ngày 03 tháng 3 năm 2008 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Nguyễn Văn Út sinh năm 1961, trú tại khóm 6, thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: khi phạm tội là Thủ quỹ Trung tâm y tế huyện Cầu Kè; con ông Nguyễn Văn Chương và bà Nguyễn Thị Bảy; có vợ và 02 con; bị bắt giam từ ngày 23-8-2005 đến ngày 09-5-2006.

    Nguyên đơn dân sự: Trung tâm y tế huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

    NHẬN THẤY:

    Khoảng hơn 7 giờ ngày 14-5-2005, anh Hàn Văn Hùm Trưởng phòng hành chính của Trung tâm y tế huyện Cầu Kè đến cơ quan làm việc, phát hiện phòng kho quỹ do Nguyễn Văn Út quản lý không khóa cửa, anh Hùm báo Út đến cơ quan. Sau đó anh Hùm cùng Út đến phòng kho quỹ, anh Hùm đứng ngoài còn Út vào kho kiểm tra két sắt và báo cáo anh Hùm đã mất hết tiền. Anh Hùm yêu cầu Út để nguyên hiện trường như cũ, sau đó anh Hùm báo cáo lãnh đạo Trung tâm và báo Công an huyện Cầu Kè.

    Đến 8 giờ cùng ngày, Công an huyện Cầu Kè khám nghiệm hiện trường thể hiện: hiện trường bị sáo trộn do có sự kiểm tra của Thủ quỹ kho; kiểm tra cửa kho có 03 chỗ để khóa 03 ổ khóa bảo vệ kho, khoen khóa thứ nhất phía trên cùng có một ổ khóa móc vào 02 cánh cửa ở trạng thái mở, bên ngoài ổ khóa không thấy dấu vết cạy phá hoặc dấu vết khác, 02 khoen khóa phía dưới không thấy ổ khóa. Từ giữa cửa về phía bên phải cách 01m từ ngoài vào phát hiện 01 ổ khóa cùng loại với ổ khóa móc trên cửa, tình trạng mở. Từ cửa nhìn vào cách 3,6 m có 01 két sắt gồm 02 khóa: 01 khóa tay và 01 khóa số (mật mã), trên cánh cửa của két sắt ngay ổ khóa tay có dấu vết trầy xước bên ngoài, tình trạng khóa tay của két sắt mở, khóa số trạng thái mở, ngay phía trước cửa két sắt có nhiều bọc nilon và giấy tờ rơi vãi trên nền, trong kho còn nhiều đồ đạc vật dụng khác. Quá trình quan sát hiện trường bằng mắt và có sử dụng đèn pin để quan sát, chỉ phát hiện thấy dấu vết trầy sước trên ổ khóa tay của két sắt, ngoài ra không phát hiện dấu vết nào khác.

    Cơ quan điều tra đã thu giữ: 02 ổ khóa và 03 chìa khóa cửa kho quỹ; 01 két sắt và 01 chìa khóa tay của két sắt. Ngày 21-5-2005 Út giao nộp 06 chìa khóa dự phòng của 03 ổ khóa cửa kho.

    Ngay sau khi khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra lấy lời khai của Nguyễn Văn Út. Theo lời khai của Nguyễn Văn Út thì Út làm thủ quỹ từ năm 1988, phòng kho quỹ để két sắt đựng tiền là một phòng riêng, trong kho có nhiều loại tài sản như: bát, đĩa, nồi, dây điện…rất chật, két sắt để ở góc phòng bên trong. Quá trình quản lý kho quỹ và quản lý chìa khóa Út không nhờ hoặc gửi ai cất giữ hộ, hàng ngày Út đều kiểm tra kho và khi cất tiền xong Út khóa két sắt lại nhưng không cài khóa mã số. Khoảng hơn 13 giờ ngày 13-5-2005, sau khi kiểm tra tiền, Út khóa két sắt và khóa phòng kho, đến 15 giờ xuống sân Trung tâm chơi bóng đến 17 giờ thì về nhà. Khoảng 7 giờ ngày 14-5-2005, anh Hùm báo kho quỹ không khóa, Út đến kiểm tra và phát hiện phòng kho quỹ mất 02 ổ khóa phía dưới, còn 01 ổ khóa trên cùng đã mở và móc vào hai cánh cửa, đồ đạc trong kho không bị lục soát, két sắt ở tư thế khép lại. Số  tiền bị mất khoảng hơn 80.000.000 đồng.

    Ngày 20-5-2005 Cơ quan điều tra đối chiếu quỹ tiền mặt trên sổ sách kế toán và thủ quỹ cho thấy số tiền trên sổ sách còn tồn là 112.015.004 đồng. Út để tại tủ sắt ở phòng làm việc là 19.000.000 đồng, và như vậy số tiền bị mất là 92.915.004 đồng (gồm kinh phí của 10 nguồn).

    Ngày 14-5-2005 Cơ quan điều tra trưng cầu giám định 02 ổ khóa của cửa kho quỹ.

    Ngày 24-5-2005 Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự về tội “trộm cắp tài sản” và trưng cầu giám định ổ khóa tay của cánh cửa két sắt, bốn trục của ổ khóa số của két sắt.

    Tại kết luận giám định số 2072/C21B ngày 15-6-2005 và số 2255/C21B ngày 15-6-2005, Phân viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát Bộ Công an kết luận:  

    - Không xuất hiện dấu vết công cụ ở bên ngoài, không phát hiện thấy vật lạ, dấu vết lạ ở bên trong 02 ổ khóa treo nhãn hiệu Tam Nguyệt.

    - Hệ thống khóa của két sắt mang nhãn hiệu COFFRES FORTS BAUCHE có đầy đủ các bộ phận, lắp ráp đúng vị trí và hoạt động bình thường.

    - Không xuất hiện dấu vết công cụ ở bên ngoài, không phát hiện thấy vật lạ, dấu vết lạ ở bên trong hệ thống khóa của két sắt.

     Ngày 17-8-2005 Cơ quan điều tra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự từ tội “trộm cắp tài sản” sang tội “tham ô tài sản”.

    Sau hơn sáu tháng kể từ ngày xảy ra vụ án, ngày 30-11-2005 anh Đèo cùng một số người khác xếp lại đồ đạc trong kho quỹ của Trung tâm, đã phát hiện 01 ổ khóa và báo cho Cơ quan điều tra đến thu giữ. Ổ khóa nằm phía trong cuộn dây điện, cách cửa ra vào của kho quỹ 20 cm từ ngoài vào phía bên phải, tình trạng ổ khóa mở bình thường.

    Ngày 08-02-2006 Phân viện khoa học hình sự Tổng Cục cảnh sát Bộ Công an giám định ổ khóa này và kết luận: không phát hiện dấu vết công cụ ở bên ngoài, không phát hiện thấy vật lạ, dấu vết lạ ở bên trong ổ khóa treo nhãn hiệu “Tam Nguyệt”.

    Quá trình điều tra (từ ngày 21-5-2005), Nguyễn Văn Út không thừa nhận đã chiếm đoạt số tiền của Trung tâm và khai bổ sung như sau:

    Năm 2002 khóa mã số két sắt bị kẹt, sau khi Út gọi thợ khóa vào sửa, do hay quên nên từ đó Út không sử dụng khóa mã số. Ngày 13-5-2005 Út đến cơ quan làm việc bình thường như mọi ngày, đến 16 giờ 30 đi đón con về nhà phụ giúp việc gia đình. Khoảng từ 19 giờ đến 19 giờ 30 phút, Út chơi cờ Đô Mi Nô tại nhà cùng các anh Nguyễn Trường Cang, Huỳnh Đình Mỹ và anh Nguyễn Minh Luân, sau đó đi ngủ. Sáng 14-5-2005 khi Út vào kiểm tra kho quỹ, thấy ổ khóa không có dấu vết cạy khóa và dấu trầy. Số tiền 19.000.000 đồng và 06 chìa khóa dự phòng của cửa kho quỹ, Út để trong tủ sắt ở phòng làm việc vẫn còn. Việc mất tiền để trong kho quỹ do ai trộm cắp Út không biết.

    Tại bản cáo trạng số28/VKS-P1 ngày 17-3-2006, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh truy tố Nguyễn Văn Út về tội “tham ô tài sản” theo các điểm b và d khoản 2 Điều 278 Bộ luật hình sự.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 01/2007/HSST ngày 03-01-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh áp dụng các điểm b và d khoản 2 Điều 278; khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn Út 08 năm tù về tội “tham ô tài sản”; áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự buộc Út phải bồi thường cho Trung tâm y tế huyện Cầu Kè 92.915.004 đồng.

    Ngày 09-01-2007, Bị cáo Nguyễn Văn Út kháng cáo kêu oan cho rằng: trước khi ra về bị cáo đã khóa 03 khóa cửa kho quỹ có chị Lùng biết. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án các cấp cho rằng việc mất tiền xảy ra khoảng thời gian từ 17 giờ đến 19 giờ, thì lúc đó cơ quan có nhiều người ra vào, còn có Bác sỹ trực tại phòng hành chính cách phòng kho quỹ khoảng vài mét và nếu bị cáo về nhà rồi quay lại cơ quan làm hiện trường giả thì phải có người nhìn thấy; về khoảng thời gian này bị cáo đang đi cho lợn ăn cách nhà bị cáo gần 100m, lúc về thấy có các anh đang đánh cờ tại quán nước nhà bị cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét lại.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 518/2007/HSPT ngày 19-4-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Út có đơn khiếu nại kêu oan, cho rằng:

    - Cơ quan điều tra không lấy dấu vân tay;

    - Khi nhận bàn giao két sắt thông thường có 02 chìa khóa, nhưng chị Nguyễn Thị Đành bàn giao cho bị cáo 01 chìa khóa,

    - Không triệu tập giám định viên đến phiên tòa để giải thích “dấu vết lạ” ở bên trong ổ khóa,

    - Biên bản khám nghiệm hiện trường ghi: trên cánh cửa của két sắt ngay ổ khóa tay có dấu vết trầy sước bên ngoài, giám định kết luận không phát hiện dấu vết công cụ ở bên ngoài là không đúng...

    Tại kháng nghị giám đốc thẩm số26/HS-TK ngày 24-9-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 518/2007/HSPT ngày 19-4-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 01/2007/HSST ngày 03-01-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh để điều tra lại.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.  

    XÉT THẤY:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Nguyễn Văn Út về tội "tham ô tài sản" là chưa có đầy đủ căn cứ bởi lẽ: qúa trình điều tra còn có những vi phạm về thủ tục tố tụng và có một số vấn đề chưa được điều tra làm rõ như:

                - Cửa kho quỹ được khóa 03 ổ khóa, khi khám nghiệm hiện trường thu được 02 ổ khóa còn 01 ổ khóa đến ngày 30-11-2005 (sau hơn 06 tháng) Cơ quan điều tra yêu cầu ông Nguyễn Minh là Giám đốc Trung tâm y tế huyện Cầu Kè mở kho quỹ để kiểm tra, anh Nguyễn Văn Đèo là Điều tra viên cùng một số người khác kiểm tra kho quỹ đã phát hiện ổ khóa này nằm phía trong cuộn dây điện và ngay cửa kho (cách cửa ra vào kho quỹ 20 cm phía bên phải). Vậy cần làm rõ sau khi khám nghiệm hiện trường ban đầu đến khi kiểm tra kho lần thứ 2 đã có ai vào kho không?; vì sao khi khám nghiệm hiện trường ban đầu, những người tham gia khám nghiệm không phát hiện được ổ khóa này, trong khi ổ khóa này nằm ngay cửa ra vào kho?

    - Kho quỹ là một phòng riêng, chỉ có một mình bị cáo quản lý và sử dụng. Khi phát hiện kho quỹ bị mở cũng chỉ có mình bị cáo vào kiểm tra, ngoài ra không có ai khác, nhưng Cơ quan điều tra không lấy dấu vân tay để xác định ai là người mở két sắt chiếm đoạt tài sản. Đây là một thiếu sót nghiêm trọng, cần kiểm tra lại các vật chứng có vật chứng nào còn lại mà liên quan đến vụ án để có thể giám định được vân tay?

    - Khi giám định két sắt, Cơ quan giám định không kiểm tra các chữ số của khóa mã số ở vị trí nào trên két sắt để làm rõ: nếu chỉ mở két sắt bằng chìa khóa tay thì khi khóa lại có đóng, mở két sắt được bình thường hay không? không giám định dấu vết trầy xước trên cánh cửa của két sắt ngay ổ khóa tay là không đầy đủ, cần được kiểm tra, xem xét các dấu vết này.

    - Về 06 chìa khóa dự phòng cửa kho quỹ, bị cáo để trong tủ sắt tại phòng làm việc. Trong phòng này ngoài bị cáo còn có 02 người khác, nhưng ngay sau khi sự việc xảy ra không kiểm tra 06 chìa khóa này có còn ở vị trí cũ hay đã bị thất lạc, lý do tại sao đến ngày 21-5-2005 Út mới nộp 06 chìa khóa này cho Cơ quan điều tra.

    - Cần thực nghiệm điều tra về việc mở 03 ổ khóa cửa kho để xem xét trong trường hợp người khác sử dụng các phương tiện không phải chính chìa khóa của ổ khóa đó để mở thì có để lại dấu vết lạ hay không và cho đối chất về việc giao nhận chìa khóa của két sắt giữa Nguyễn Văn Út và chị Nguyễn Thị Đành để xác định Út đã nhận 01 chìa khóa hay 02 chìa khóa của két sắt.

    Việc điều tra làm rõ những vấn đề nêu trên sẽ là rất khó khăn vì thời gian đã lâu, nhưng là rất cần thiết cho việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn Út. Trong trường hợp không thể điều tra bổ sung được, thì với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chỉ có đủ căn cứ xác định Nguyễn Văn Út phạm tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” theo quy định tại Điều 144 Bộ luật hình sự.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 518/2007/HSPT ngày 19-4-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm số 01/2007/HSST ngày 03-01-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh; giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án bị cáo về tội “tham ô tài sản” là chưa đầy đủ căn cứ vì quá trình điều tra còn có những vi phạm về thủ tục tố tụng và có một số vấn đề chưa được điều tra làm rõ.

     

     
    4578 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận